Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04 Bản chất của tâm

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11426)
04 Bản chất của tâm


Vì bị nhốt kín trong cái lồng hạn hẹp tối tăm của bản ngã mà ta cho là cả vũ trụ, rất ít người trong chúng ta khởi sự ngay cả tưởng đến một chiều không gian khác của thực tại. Patrul Rinpoche kể cho chúng ta câu chuyện về một con ếch già suốt đời sống trong một cái giếng ẩm. Một ngày kia có con ếch từ ngoài biển vào thăm nó. Nó hỏi:

- Anh từ đâu đến?

- Từ biển.

- Biển của anh to bao nhiêu?

- To khổng lồ.

- Anh muốn nói là bằng cỡ chừng phần tư cái giếng của tôi đây chứ gì?

- Không, lớn hơn cơ.

- Lớn hơn à? Vậy thì bằng nửa cái giếng của tôi không?

- Không, lớn nữa kia.

- Thế... Chẳng nhẽ lại bằng cả cái giếng của tôi à?

- Không có thể so sánh được.

- Chuyện vô lý! Tôi phải đi xem cho tận con mắt.

-Chúng cùng đi. Khi con ếch ở giếng trông thấy đại dương, nó bị một cú sốc kinh hoàng tới nỗi nó nổ tung ra thành từng mảnh.

Phần lớn những hoài niệm tuổi thơ tôi về Tây Tạng đã phai tàn, nhưng có hai thời điểm mà tôi không bao giờ quên. Đó là khi thầy tôi Jamyang Khientse khải thị cho tôi đi vào bản chất cốt tủy, uyên nguyên và sâu xa nhất của tâm tôi. Lúc đầu tôi cảm thấy dè dặt không muốn tiết lộ những kinh nghiệm riêng tư này, vì ở Tây Tạng không bao giờ người ta làm chuyện đó, nhưng các học trò, bạn bè tôi tin rằng nếu tôi nói ra thì có thể giúp đỡ nhiều người, và họ yêu cầu tôi, năn nỉ tôi viết về những kinh nghiệm ấy.

Lần đầu tiên nó xảy đến khi tôi khoảng sáu bảy tuổi, tại trong cái phòng đặc biệt mà thầy tôi ở, trước mộ bức tranh lớn của tiền nhân thầy là Jamyang Khientse Wangpo. Đấy là một hình dáng oai vệ nghiêm trang, càng oai vệ trang nghiêm hơn khi ánh đèn bơ đặt trước bức tranh cứ chập chờn soi sáng gương mặt trên bức tranh ấy. Tôi chưa biết có chuyện gì xảy ra thì thầy tôi đã làm một sự bất thường chưa từng có. Ngài thình lình ôm tôi và nhấc bổng lên. Đoạn ngài hôn tôi một cái vào một bên má. Trong một lúc lâu, tâm tôi hoàn toàn biến mất, tôi được bao phủ bởi một niềm yêu thương, tin tưởng, một năng lực phi thường.

Biến cố kế tiếp thì trang trọng hơn và xảy ra ở Lhodrak Kharchu trong một hang động mà Padmasambhava bậc thánh vĩ đại và là cha đẻ của Phật giáo Tây Tạng, đã nhập thất thiền định. Chúng tôi đã dừng chân tại đấy trên đường hành hương đến miền Nam. Lúc đó tôi chừng chín tuổi. Thầy tôi gọi tôi đến và bảo tôi ngồi trước mặt ôn. Chỉ có hai thầy trò chúng tôi. Thầy tôi bảo:

- Bây giờ ta sẽ khai thị cho con về bản lai diện mục của tâm.

Cầm cái chuông và trống tay nhỏ lên, thầy triệu thỉnh tất cả những bậc thầy trong hệ truyền thừa, từ Phật nguyên thủy trở xuống đến bậc thầy của chính thầy. Rồi thầy bắt đầu khai thị. Bỗng chốc thầy ném vào mặt tôi một câu hỏi không thể trả lời:

- Tâm là gì?

Thầy nhìn xoáy sâu vào mắt tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc. Tâm tôi tan ra. Không còn ngôn từ, tên gọi, ý tưởng nào ở lại – Không có tâm nào hết, quả thế.

Cái gì xảy ra trong giây phút đầy kinh ngạc ấy? Những ý niệm quá khứ đã chết, tương lai chưa đến; dòng tư tưởng của tôi bị cắt ngang đột ngột. Trong cú sốc đó một khoảng trống mở ra, trong khoảng trống ấy chỉ có một giác tính tuần túy trực tiếp về hiện tại, một cái gì hoàn toàn vượt ngoài mọi bám víu chấp thủ. Giác tính ấy đơn giản, sơ nguyên và căn để. Tuy vậy sự giản đơn thuần túy đó cũng tỏa sáng đầy sự ấm áp của một niềm bi mẫn bao la.

Biết bao nhiêu điều tôi có thể nói về giây phút ấy! Thầy tôi rõ ràng đang đặt cho tôi một câu hỏi, nhưng tôi biết thầy không chờ đợi một câu trả lời. Tôi chưa săn tìm giải đáp thì đã thấy rằng không có giải đáp nào có thể tìm kiếm. Tôi ngồi thộn ra trong kinh ngạc, nhưng trong khi ấy một niềm tin vững chắc sâu xa sáng chói tôi chưa từng biết đến, đang dâng tràn trong tôi.

Thầy tôi đã hỏi: “Tâm là gì?” và vào lúc ấy tôi tưởng chừng ai cũng biết rằng, không có chuyện có hiện hữu một cái tâm nào cả, làm sao tôi có thể tìm ra. Vậy, dường như đi tìm tâm thực là phi lý.

Sự khai thị của thầy tôi đã gieo một hạt giống sâu xa trong tôi. Về sau tôi mới biết đấy là phương pháp khai thị được dùng trong truyền thống chúng tôi. Tuy nhiên, vì lúc đó tôi không biết, mà những gì xảy ra có vẻ hoàn toàn bất ngờ, và do đó càng kinh hoàng mãnh liệt.

Trong truyền thống chúng tôi có “ba chân xác” cần hội đủ để khai thị bản tâm:

· Sự làm phép của một bậc thầy chân xác,

· Lòng sùng tín của một đệ tử chân xác, và

· Tính chính thống trong phương pháp khai thị.

Tổng thống Mỹ không thể khai thị bản tâm cho bạn, mà cha hay mẹ bạn cũng không thể làm việc đó. Một người có quyền thế đến bao nhiêu cũng không ăn thua gì, hoặc họ có yêu mến bạn bao nhiêu cũng không ăn thua gì. Việc khai thị chỉ có thể được thực hiện bởi một người đã hoàn toàn thực chứng, và có sự ban phép và kinh nghiệm thuộc trong hệ phái truyền thừa.

Và bạn, người học trò, phải tìm ra và luôn hàm dưỡng cái tri kiến khoáng đạt thênh thang ấy, niềm hăng say, nhiệt tình và sự tôn trọng nó sẽ làm biến đổi cả bầu không khí trong tâm bạn, làm bạn sẵn sàng đón nhận sự khai thị. Đây là điều mà ta gọi là lòng sùng tín. Nếu không có lòng sùng tín, thì thầy có khai thị trò cũng không nhận ra. Sự khai thị bản tâm chỉ có thể thực hiện khi cả thầy lẫn trò cùng thể nhập cái kinh nghiệm ấy; chỉ trong sự giao cảm giữa tâm và trí ấy, người môn sinh mới trực ngộ được.

Phương pháp khai thị cũng vô cùng quan trọng. Chính phương pháp ấy đã được thử nghiệm qua hàng ngàn năm và đã giúp cho những bậc thầy trong quá khứ đạt đến thực chứng. Khi thầy tôi khai thị cho tôi một cách tự nhiên như thế, vào lúc tuổi còn bé như thế, là thầy đã làm một việc hoàn toàn bất thường. Thông thường thì việc khai thị xảy ra muộn hơn nhiều, khi đệ tử đã trải qua những thực tập thiền định và thanh luyện tâm ý. Chính những việc làm này khiến cho tâm trí người đệ tử thuần thục và có thể mở ra để đón nhận tri kiến trực tiếp về chân lý. Vào cái thời điểm đầy tiềm năng của sự khai thị, bậc thầy có thể truyền cái tâm giác ngộ của mình vào trong tâm của người đệ tử bấy giờ đã chân xác sẵn sàng đón nhận. Bậc thầy làm cái việc khai thị cho trò thấy Phật thật là gì, nói cách khác là đánh thức trò thấy sự hiện diện sống động của tuệ giác nội tâm. Trong kinh nghiệm ấy, thì Phật, bản tâm của người đệ tử, và tâm giác ngộ của bậc thầy tan hòa thành một. Khi ấy người học trò nhận ra, trong một niềm tri ân vô bờ bến, rằng không còn nghi ngờ gì nữa, giữa thầy và trò, giữa tâm giác ngộ của bậc thầy và bản tâm người đệ tử, không có và chưa bao giờ có sự ngăn cách nào cả. Dudjom Rinpoche trong bài ca chứng đạo nổi tiếng của ngài đã viết:

- Tuệ giác về cái bây giờ chính là Phật thật,

Trong tâm trạng cởi mở, hài lòng, tôi gặp Thầy trong tim tôi. Khi ta nhận chân được rằng cái tâm bản nhiên bất tận đó chính là Thầy.

Thì không cần bám víu, chấp thủ, cầu khẩn khóc than.

Chỉ cần an trú thoải mái trong trạng thái tự nhiên như nhiên ấy,

Là ta có được phúc lạc của giải thoát.

Khi bạn đã nhận chân toàn triệt rằng tự tính của tâm bạn cũng giống như của thầy, thì từ đấy trở đi bạn và thầy không bao giờ ngăn cách vì thầy là một với tâm bản nhiên của bạn, luôn luôn hiện tiền. Có lẽ bạn còn nhớ Lama Tseten (Chương một), khi sắp chết và được hỏi có muốn gọi bậc thầy đến bên giường không, ông đã trả lời:

- Với bậc thầy, không có cái gì gọi là ngăn cách.

Khi nào bạn thấy được như Lama Tseten rằng thầy và mình không từng xa nhau, thì một niềm tri ân vô bờ bến, một cảm thức úy phục và kính lễ nảy sinh trong bạn. Dudjom Rinpoche gọi đó là “Sự kính lễ của Tri kiến.” Đó là một niềm sùng kính luôn phát tự nhiên do ngộ được cái Tri kiến về bản tâm.

Đối với tôi, còn có nhiều lần nhập môn khác nữa: Nhập môn về giáo lýquán đảnh, và về sau tôi được sự khai thị của nhiều thầy khác. Sau khi Jamyang Khientse viên tịch, Dudjom Rinpoche chăm sóc tôi, bao bọc tôi trong tình thương mến của ngài, và tôi làm người thông dịch cho ngài trong nhiều năm. Việc này mở ra một giai đoạn mới trong đời tôi.

Dudjom Rinpoche là một trong những bậc thầy mật tông nổi tiếng của Tây Tạng, một học giả, tác giả nổi tiếng. Thầy Jamyang Khientse tôi thường ca tụng Dudjom, nói ngài là một đại diện sống động của Padmasambhava trong thời đại này. Bởi thế tôi rất kính trọng ngài, mặc dù chưa từng tiếp kiến cũng chưa được nghe ngài giảng dạy. Một hôm, sau khi thầy tôi đã chết, vào lúc tôi chừng hai mươi mấy tuổi, tôi đến viếng Dudjom Rinpoche tại nhà riêng của ngài ở Kalimpong, trên một ngọn đồi thuộc dãy núi tuyết.

Khi tới nơi, tôi thấy một trong những đệ tử Mỹ đầu tiên của ngài đang thọ giáo. Bà ta đang khổ sở vì không có người nào biết đủ Anh ngữ để dịch những lời dạy về tự tánh của tâm. Khi thấy tôi đi vào, Dudjom Rinpoche nói:

- Ồ! Có con đây rồi. Tốt. Con có thể thông dịch giùm bà ấy không?

Thế là tôi ngồi xuống và khởi sự dịch. Ngày trong một thời gian giảng dạy chừng một tiếng đồng hồ, ngài đã cho một bài pháp tuyệt diệu, bao trùm tất cả mọi sự. Tôi xúc cảm và phấn chấn đến độ mắt tôi rớm lệ. Tôi nhận ra đây là điều mà Jamyang Khientse muốn nói.

Ngay sau đó, tôi thỉnh cầu ngài chỉ giáo cho tôi. Tôi thường đến tư thất ngài mỗi chiều và ở đó vài giờ. Ngài có vóc người nhỏ thó, gương mặt đẹp hiền từ, đôi bàn tay tuyệt vời, và một dáng dấp mảnh mai gần như phụ nữ. Ngài để tóc dài bới cao lên như một hành giả Du già; Mắt ngài luôn ánh lên một niềm thích thú huyền bí. Giọng nói ngài dường như chính là tiếng nói của tâm đại bi, êm và hơi khàn. Ngài thường ngồi trên một ghế thấp trải thảm Tây Tạng, tôi ngồi dưới chân ngài. Tôi luôn nhớ lại hình ảnh ngài ngồi đó, bóng trời chiều chiếu qua khung cửa sổ sau lưng ngài.

Rồi một hôm trong khi tôi đang thụ giáothực tập với ngài, tôi có một kinh nghiệm kỳ lạ nhất. Mọi sự mà tôi đã từng nghe trong giáo lý mật tông dường như đang xảy đến với tôi – tất cả những hiện tượng vật chất quanh chúng tôi đang tan biến – tôi sung sướng ấp úng:

- Thầy, thầy... Nó đang xảy ra!

Tôi không bao giờ quên được vẻ bi mẫn trên gương mặt thầy, khi thầy cúi xuống vỗ về:

- Được, được. Đừng có náo nức quá. Chung quy, điều ấy không tốt cũng không xấu...

Sự kinh ngạcsung sướng bắt đầu cuốn hút tôi đi, nhưng Dudjom Rinpoche biết rằng mặc dù những thực chứng có thể là những cái mốc hữu ích trên đường tu thiền định, chúng cũng có thể thành những cái bẫy nếu có sự bám víu xen vào. Ta cần phải vượt qua kinh nghiệm ấy để đi vào một nền tảng sâu xa vững chắc hơn: Những lời minh triết của thầy để đưa tôi đến cái nền tảng ấy.

Dudjom Rinpoche còn giúp tôi thực chứng nhiều lần bản chất của tâm qua những lời dạy của thầy, chính những danh từ cũng đã nhen nhúm lên những tia sáng về kinh nghiệm thực. Trong nhiều năm, mỗi ngày ngài thường chỉ giáo cho tôi về bản tính tự nhiên của tâm mà người ta gọi là giáo lý “trực chỉ” (pointing-out instructions). Mặc dù tôi đã thụ huấn tất cả những gì thiết yếu từ nơi thầy Jamyang tôi, nhưng đó chỉ như mới gieo hạt. Chính Dudjom là người đã tưới tẩm chăm bón làm cho nó đơm hoa. Và khi tôi khởi sự ra giảng dạy, thì chính tấm gương thầy Dudjom đã gợi cảm hứng cho tôi nhiều nhất.
 
 

TÂM VÀ TỰ TÍNH CỦA TÂM
 
 

Cái thấy thực “cách mạng” trong Phật giáo là, sự sống và chết ở ngay trong tâm, không đâu khác. Tâm được xem như nền tảng phổ quát của kinh nghiệm - kẻ sáng tạo ra hạnh phúcđau khổ, kẻ sáng tạo ra cái ta gọi là sự sống và cái ta gọi là sự chết.

Có nhiều phương diện của tâm, nhưng có hai phương diện nổi bật hơn cả. Đầu tiên là cái tâm thông thường mà người Tây Tạng gọi là sem. Một bậc thầy đã định nghĩa:

- Đó là cái tâm có khả năng phân biệt, có ý thức về nhị nguyên - hoặc lấy hoặc bỏ một đối tượng ngoài – đó là tâm. Đó là cái có thể giao thiệp với một cái “khác”, bất cứ cái gì khác, được xem là sở tri (bị biết) khác với cái năng tri (người biết). Sem là cái tâm suy nghĩ, tâm nhị nguyên, phân biệt, chỉ có thể vận hành tương quan với một điểm quy chiếu ở ngoài, bị nhận lầm và chỉ là một cái bóng được chiếu ra.

Vậy Sem là cái tâm suy nghĩ, đặt kế hoạch, ham muốn, vận động, cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, tạo ra và say mê trong những đợt sóng tư duycảm xúc tiêu cực, cái tâm cứ luôn luôn phải tiếp tục quả quyết, đánh giá, và xác định lại hiện hữu của nó bằng cách cắt xén, đặt tên, củng cố kinh nghiệm. Tâm thông thường là miếng mồi thụ động di chuyển không ngừng theo những ảnh hưởng bên ngoài, theo những khuynh hướng tập quán và điều kiện: Những bậc thầy ví nó với một ngọn đèn cầy đặt trước gió, phải bị lay động bởi tất cả những ngọn gió của hoàn cảnh.

Nhìn từ một góc cạnh, thì sem là lay động, không dừng trụ, chấp thủ, luôn luôn xía vô việc của người khác; năng lực nó bị tiêu hao do chiếu ra ngoài quá nhiều. Đôi khi tôi vì nó như hột đậu nhảy của xứ Mexico hay một con khỉ không ngừng nhảy chuyền cành. Tuy vậy nhìn một cách khác, thì tâm thông thường có một tính cố định cùn nhụt giả tạm, một tính trơ lì tự về và tự mãn, một sự bình thản lạnh lùng của thói quen ăn sâu. Sem láu cá như một chính trị gia quỷ quyệt, hoài nghi, nhiều muu mô lừa dối, và “tinh vi với những trò lừa gạt,” Jamyang Khientse đã viết. Chính trong kinh nghiệm của sem, cái tâm hỗn mang vô trật tự này mà chúng ta chịu những đổi thay và chết chóc.

Nhưng còn có bản tính tự nhiên của tâm, tính chất sâu xa của nó, cái tuyệt đối không dính tới đổi thay và chết chóc. Hiện giờ nó đang ẩn trong tâm sem thông thường của ta, bị bao phủ và che mờ bởi những huyên náo rộn ràng trong tâm, những ý nghĩcảm xúc. Cũng như mây có thể bị luồng gió mạnh thổi tan, để lộ mặt trời sáng chói và bầu trời rộng mở, cũng thế, trong vài trường hợp đặc biệt, một cảm hứng nào đó có thể vén mở cho ta hé thấy bản tính tự nhiên ấy của tâm. Những sự hé thấy này có nhiều mức độ cạn sâu, song đều đem lại cho ta một ít tuệ giác, ý nghĩagiải thoát tự do. Bởi vì bản tính tự nhiên này của tâm chính là gốc rễ của trí tuệ. Tạng ngữ gọi nó là Rigpa, một sự tỉnh giác trong sáng nguyên ủy có tính chất thông minh, biết nhận thức, sáng chói và luôn luôn tỉnh thức. Có thể nói nó là cái biết của chính cái biết.

Đừng tưởng lầm bản chất tự nhiên của tâm chỉ có trong tâm ta mà thôi. Kì thực nó là bản chất của mọi sự vật. Điều cần nói là, trực nhận bản tính tự nhiên của tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật.

Những bậc thánh và hành giả huyền học trong lịch sử thường nói về sự chứng ngộ của họ bằng những tên khác nhau, khoác cho nó nhiều bộ mặt khác nhau, lối giải thích khác nhau, nhưng tất cả đều kinh nghiệm một điều căn bảnbản tính thuần túy của tâm. Người Ki tô và Do thái giáo gọi nó là Thượng đế; Ấn giáo gọi là Đại ngã, Shiva, Brahman và Vishnu; những nhà thần bí Sufi gọi nó là “Tính chất ẩn nấp;” còn Phật tử thì gọi là “Phật tính.” Trọng tâm của mọi tôn giáo là niềm xác tín rằng có một chân lý căn để, và đời sống là một cơ hội thiêng liêng để tiến hóathực chứng chân lý ấy.

Khi ta nói Phật, ta tự nhiên nghĩ đến thái tử xứ Ấn Gotama Siddhartha đạt giác ngộ vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, người đã giảng dạy con đường tâm linh mà hàng triệu người khắp Á châu noi theo, ngày nay gọi là Phật giáo. Tuy nhiên danh từ Buddha có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó có nghĩa là một con người, bất cứ người nào, đã hoàn toàn thức dậy từ giấc ngủ vô minh và mở mang tiềm năng trí tuệ bao la của mình. Một đức Phật là một người đã chấm dứt đau khổbất mãn, đã tìm ra một niềm bình an, hạnh phúc dài lâu bất tận.

Nhưng đối với nhiều người trong thời đại hoài nghi này, thì trạng thái ấy có vẻ như một điều huyễn hoặc, mộng mị, hay một sự thành tựu hoàn toàn vượt ngoài tâm chúng ta. Điều quan trọng nên nhớ là, đức Phật đã từng là một con người như bạn và tôi. Ngài chưa từng tuyên bốthần thánh gì cả, ngài chỉ biết ngài có Phật tính, hạt giống của giác ngộ, và mọi người cũng đều có. Phật tính là quyền sống của mọi chúng sinh, và tôi thường nói rằng Phật tính nơi chúng ta cũng tốt như Phật tính nơi bất cứ đức Phật nào. Đấy là tin lànhđức Phật mang lại cho chúng ta từ khi ngài giác ngộ tại bồ đề tràng, nơi mà nhiều người sau đã tìm thấy nguồn cảm hứng thiêng liêng. Thông điệp của ngài, đem lại cho ta một hy vọng tràn trề. Nhờ luyện tập, chúng ta cũng có thể đạt đến sự tỉnh thức. Nếu điều này không đúng, thì vô số người tư xưa cho đến ngày nay đã không giác ngộ.

Tương truyền khi Phật mới đạt giác ngộ, điều duy nhất ngài muốn làm là chỉ cho tất cả chúng ta tự tính của tâm, san sẻ cho ta những gì ngài đã trực ngộ. Nhưng ngài cũng thấy, với nỗi đau buồn và lòng bi mẫn bao la - rằng thật khó mà làm cho chúng ta hiểu được.

Vì mặc dù ta cũng có tự tánh của tâm như Phật, chúng ta không nhận ra nó được vì nó bị gói kín, bao trùm trong những cái tâm thông thường phàm tục của ta. Hãy tưởng tượng một cái bình trống. Khoảng không trong bình cũng giống hệt như khoảng không bên ngoài. Chỉ có những bức thành mong manh của cái bình đã ngăn cách không gian bên trong với bên ngoài. Tâm Phật trong ta bị vây kín trong những bức thành của tâm thông tục. Nhưng khi ta giác ngộ, thì cũng giống như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn. Khoảng không gian “bên trong” liền tan hòa ngay vào không gian “bên ngoài”. Cả hai trở thành một: Ngay lúc đó và tại chỗ đó, ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác; chúng vẫn luôn luôn là một.
 
 

BẦU TRỜI VÀ NHỮNG ĐÁM MÂY

Bởi thể, dù đời ta có thế nào đi nữa, Phật tính của ta cũng luôn luôn ở đấy. Và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được, và chúng sinh với tất cả vô minh có vẻ bất tận, cũng không thể làm cho nó lấm lem. Tính bản nhiên của chúng ta có thể ví như bầu trời, và sự mờ mịt của tâm thông tục giống như mây. Có những ngày bầu trời hoàn toàn bị mây phủ kín. Khi ấy nếu nằm xuống đất mà nhìn lên, thì ta thực khó mà tin nổi trên trời còn có cái gì khác ngoài ra mây. Nhưng chỉ cần bay trong một chiếc phi cơ ta sẽ thấy tít trên cao xa nữa là một vùng trời xanh trong bao la vô tận. Từ đấy mà nhìn xuống thì thấy những đám mây – mà khi ở dưới đất, ta tưởng là tất cả mọi sự - thật xa xăm nhỏ bé làm sao.

Ta phải cố nhớ luôn luôn rằng: Những đám mây không phải là bầu trời, và không “thuộc về” bầu trời. Chúng chỉ lơ lửng giữa từng không, và đi qua với kiểu hơi lố bịch, không lệ thuộc vào đâu. Nhưng chúng không bao giờ có thể để dấu vết làm lấm lem nền trời.

Vậy thì Phật tính ấy đích thực nằm ở đâu? Nó nằm ngay nơi tự tính của tâm, cái tự tính được ví như bầu trời ấy. Hoàn toàn cởi mở, tự do, vô biên, Phật tính ấy thực đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể trở thành phức tạp, hư hỏng, hay bị nhiễm ô; nó thuần tịnh tới nỗi vượt ngoài cả ý niệm dơ sạch. Nhưng nói về tự tính của tâm ví như bầu trời ấy chỉ là một ẩn dụ để giúp ta bắt đầu tưởng tượng được tính chất vô biên bao trùm tất cả của nó; vì Phật tính có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức. Như có câu:

- Đó là cái giác tính hiện tiền không lỗi nơi bạn, biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt.

Dudjom Rinpoche viết:

Không lời nào có thể mô tả,

Không ví dụ nào để chỉ rõ

Sinh tử không làm nó xấu hơn

Niết bàn không làm nó tốt hơn

Nó chưa từng sinh

Nó chưa từng diệt

Chưa từng giải thoát

Chưa từng mê lầm

Chưa từng có cũng chưa từng không

Nó không có một giới hạn nào

Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả.

Nyoshul Khen Rinpoche nói:

Sâu xa vắng lặng, thoát mọi rắc rối

Sáng suốt không do kết hợp mà thành

Vượt ngoài tâm phân biệt đặt tên;

Đấy là tâm sâu xa của những Đấng Chiến thắng.

Trong đó không một vật gì phải vứt ra

Cũng không một vật gì cần thêm vào.

Đấy thuần là cái vô nhiễm

Đang nhìn vào chính nó một cách tự nhiên.
 
 

BỐN LỖI

Tại sao người ta thấy khó, ngay cả cái chuyện nghĩ đến chiều sâu và vẻ sáng chói của tự tính tâm? Tại sao đối với nhiều người, đấy dường như là một ý niệm lạ lùng vô lối? Giáo lý nói đến bốn lỗi ngăn cản chúng ta không trực nhận được bản tâm ngay bây giờ:

1. Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó nhận ra. Cũng như ta không thể nhìn chính cái mặt của mình, tâm cũng thấy rất khó nhìn vào tự tính của chính nó.

2. Nó quá sâu xa chúng ta khó dò thấu. Ta không thể biết tâm ta sâu tới mức nào, nếu biết, ta đã ngộ một phần nào tự tính của nó.

3. Nó quá dễ ta không tin nổi. Điều duy nhất ta cần làm là an trú trong sự tỉnh giác sơ nguyên thuần túy của tự tính tâm, cái luôn luôn có mặt hiện tiền.

4. Nó quá kỳ tuyệt ta không dung chứa nổi. Nội một tính chất bao la của nó cũng quá lớn rộng không lọt được vào lối suy nghĩ hẹp hòi của tâm ta. Ta không thể tin nổi, cũng không thể tưởng tượng nổi rằng giác ngộ lại là bản chất thực sự của tâm chúng ta.

Nếu sự phân tích trên đây về bốn lỗi đã đúng trong nền văn minh Tây Tạng, một nền văn minh hầu như dành trọn cho sự nghiệp giác ngộ, thì nó lại càng đúng xiết bao ở trong nền văn minh tân tiến hiện nay, một nền văn minh dành phần lớn cho sự nghiệp tôn thờ ảo tưởng. Không bao giờ ở tây phương có một thông tin tổng quát nào về bản chất của tâm. Văn sĩ và những nhà trí thức chưa từng đề cập tới nó; những triết gia hiện đại không bàn về nó một cách trực tiếp; đa số khoa học gia hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của nó. Nó không có chỗ đứng trong văn hóa nhân gian: Không ai hát ca về nó; không ai nói về trong những vở kịch; nó không có trên truyền hình. Chúng ta thực sự được giáo dục để tin rằng không gì có thực ngoài ra là những cái ta có thể nhận thức được bằng những giác quan thông thường của chúng ta.

Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn mặt trời lên sau dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của bình anhạnh phúc.

Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn mặt trời lên sau dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của bình anhạnh phúc ấy vẫn thường xảy đến với tất cả chúng ta và một cách lạ lùng, nó ở lại với chúng ta.

Tôi nghĩ rằng chúng ta đôi khi cũng hiểu được lờ mờ những cái thoáng thấy ấy, nhưng nền văn hóa ngày nay không cung cấp cho ta một bối cảnh nào để có thể hiểu được chúng. Tệ hơn nữa là, thiên hạ đã không khuyến khích chúng ta nên thám hiểm những cái thấy ấy và đào sâu xem nó từ đâu tới, mà lại còn bảo ta, bằng cách vừa tinh vi vừa lộ liễu, phải gạt nó ra ngoài. Không ai sẽ nghe ta một cách nghiêm túc nếu ta cố san sẻ kinh nghiệm ấy với họ. Bởi thế ta thường tảng lờ những gì có thể thực sự là kinh nghiệm mặc khải nhất trong đời ta, nếu ta hiểu được chúng. Đấy có lẽ là khía cạnh đen tối đáng buồn nhất của văn minh hiện đại; Vô minháp chế đối với sự thật là ai.
 
 

NHÌN VÀO TRONG
 
 

Giả sử bây giờ ta làm một cuộc thay đổi, ta không nhìn vào một hướng duy nhất như trước nữa. Ta được dạy phải dành suốt đời để theo đuổi những tư tưởngdự phóng của ta. Ngay cả khi nói về “tâm,” thì ta cũng chỉ nói tới những ý tưởngcảm xúc của nó; và khi những nhà nghiên cứu khảo sát cái mà họ tưởng là tâm, thì họ cũng chỉ nhìn thấy những phóng ảnh của nó. Chưa từng có ai thực sự nhìn vào chính cái tâm, nền tảng từ đó tất cả những tư tưởng ngôn từ khởi lên, và điều này có những hậu quả bi thảm. Như Padmasambhava nói:

- Ngay cả khi cái thường gọi là “tâm” được nhiều người bàn tới,

Nó vẫn không được hiểu thấu, hoặc hiểu sai lạc, một chiều.

tâm không được hiểu đúng như nó là, trong bản chất nó,

Cho nên có nhiều tư tưởng triết họclý thuyết ra đời.

Lại vì người, thường không hiểu được tâm.

Nên họ không nhận ra bản lai diện mục họ

tiếp tục lang thang trong sáu nẻo luân hồiba cõi hữu mà kinh quá khổ đau.

Bởi thế không hiểu được bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn.

Làm sao chúng ta có thể lật ngược tình huống? Rất giản dị. Tâm ta chỉ có hai vị trí: Nhìn ra và nhìn vào.

Nay ta hãy nhìn vào.

Điều khác biệt mà việc chuyển hướng nhìn ấy đem đến lại có thể rất lớn lao, có thể lật lại những tai ách đang đè nặng thế giới. Khi có một số lớn người biết được bản tâm của họ, họ cũng sẽ biết được bản chất đầy quang vinh của cái thế giới trong đó họ sống, và phấn đấu một cách dũng cảm cấp thiết để bảo trì nó. Một điều thú vị là tiếng Tây Tạng gọi Phật tử là nangpa là “người ở trong”, nghĩa là người không tìm kiếm chân lý ở bên ngoài mà tìm trong bản chất của tâm. Mọi giáo lýthực tập trong Phật giáo đều dẫn đến một điểm duy nhất là nhìn vào tự tính của tâm, và nhờ vậy giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết và giúp ta nhận chân được sự thật của cuộc đời.

Việc nhìn vào trong (nội quán) đòi hỏi ta phải có sự tế nhị sâu sắc và đức can đảm lớn lao - một thay đổi tận gốc trong thái độ của ta đối với cuộc đờitâm thức. Chúng ta đã quá ghiền nhìn ra ngoài đến nỗi ta hầu như hoàn tòan mất liên lạc với bản thể sâu xa của ta. Chúng ta sợ phải nhìn vào trong, vì nền văn hóa chúng ta không cho ta biết một tí gì về những cái ta sẽ tìm gặp. Chúng ta lại còn nghĩ rằng nếu nhìn vào trong, ta sẽ có nguy cơ bị điên loạn. Điều này là một trong những mánh khóe cuối cùng, hiệu lực nhất của bản ngã để ngăn cản ta khám phá bản chất chân thực của mình.

Chúng ta đã làm cho đời sống trở nên cuồng nhiệt tới nỗi ta trừ khử mọi lăm le muốn nhìn vào trong. Cả đến ý nghĩ “ngồi thiền” cũng làm cho người ta sợ hãi. Khi nghe nói đến “Không” hay “vô ngã”, họ tưởng là mình phải trải qua những trạng thái như bị ném ra khỏi con tàu vũ trụ để chơi vơi giữa khoảng không lạnh lẽo âm u. Thực khôngsai lạc sự thật hơn thế. Nhưng trong một thế giới dành trọn cho cuộc giải trí, thì sự im lặng và yên lặng làm cho ta sợ hãi; ta tự bảo về để tránh né chúng bằng sự huyên náo và những công việc rộn ràng. Nhìn vào bản chất của tâm ta là chuyện chót bẹt mà ta dám làm.

Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng ta không muốn đặt câu hỏi nghiêm túc nào về ta là ai, vì sợ sẽ khám phá có một thực tại khác hơn sự thực, hiện tại này. Sự khám phá ấy sẽ làm gì với cái kiểu sống của ta bấy lâu nay? Bạn bè, đồng nghiệp của ta sẽ phản ứng ra sao trước cái điều mà bây giờ ta mới biết? Kèm theo hiểu biếttrách nhiệm. Có đôi khi kẻ tù nhân chọn lựa ở lại, ngay cả khi cánh cửa ngục tù đã được mở tung.
 
 

NHỮNG HỨA HẸN CỦA GIÁC NGỘ

Trong thế giới hiện nay, ít có những mẫu người thể hiện được những đức tính do sự trực ngộ bản tâm đem lại. Bởi thế thực khó cho chúng ta tưởng tượng được giác ngộ ra sao, nhận thức của một người đã giác ngộ là thế nào, huống hồ tin nổi rằng chính mình cũng có thể giác ngộ.

Mặc dù luôn luôn đề cao giá trị đời sốngtự do cá nhân, xã hội chúng ta kỳ thực xem chúng ta như những kẻ luôn bị ám ảnh bởi quyền lực, tiền và dục tính, và bất cứ lúc nào cũng cần phải lôi kéo chú ý của ta ra khỏi sự chết chóc, hay sự sống chân thực. Nếu có ai bảo cho ta biết, hay nếu ta bắt đầu “đánh hơi” được tiềm năng sâu xa của mình, thì ta không thể nào tin nổi chuyện ấy; và khi ta động nghĩ tới việc làm một cuộc chuyển hóa tâm linh, ta lại thấy rằng chỉ có những bậc thánh hiền trong quá khứ mới làm nổi điều ầy. Đức Dalai Lama thường nói đến sự thiếu niềm tự tôn trọng, tự thương lấy mình nơi nhiều người trong thế giới hiện nay. Bên dưới toàn bộ nhân sinh quan của ta là một sự cả quyết – có tính cách thần kinh loạn - về những giới hạn của chúng ta. Điều ấy làm cho ta mất hết hy vọng thức tỉnh, và ngược lại với chân lý trọng tâm của lời Phật dạy, đó là, tự cốt tủy, chúng ta vốn toàn thiện.

Ngay cả khi có thể nghĩ đến chuyện đạt giác ngộ, thì chỉ cần nhìn vào những gì làm nên cái tâm thường ngày của ta - giận dữ, tham lam, ganh tị, ác ý, bạo tàn, nhục dục, sợ hãi, lo lắng, giao động – cũng đủ làm cho ta không còn hy vọng gì đạt giác ngộ, nếu ta không được bảo cho biết rõ về tự tính thanh tịnh của tâm, và về khả năng ta chắc chắn có thể thực chứng được tự tính ấy.

Nhưng sự giác ngộ vốn thực có, và có nhiều bậc thầy đã giác ngộ hiện còn sống trên trái đất. Khi bạn gặp được một vị như vậy, bạn sẽ xúc động tận tâm can và sẽ thấy rằng mọi danh từ, như “giác ngộ” và “trí tuệ”, mà lâu nay bạn tưởng chỉ là những ý niệm, thì ra là có thực. Mặc dù đầy những nguy hiểm, thế giới nay vẫn là một cõi thật hấp dẫn. Tâm thức tây phương đang dần mở ra trước những tri kiến khác nhau về thực tại. Những bậc thầy vĩ đại như đức Dalai Lama và Mẹ Teressa có thể được trông thấy trên màn ảnh truyền hình; nhiều bậc thầy đông phương đang viếng thăm và giảng dạy giáo lýTây phương; và những sách vở từ mọi truyền thống huyền học đang càng ngày càng có nhiều độc giả. Tình trạng tuyệt vọng của hành tinh này đang dần dần đánh thức mọi người tỉnh dậy để thấy sự cấp thiết phải thay đổi trên một phạm vi rộng lớn có tính cách toàn cầu.

Sự giác ngộ, như tôi đã nói, là có thực, và bất cứ ai trong mỗi chúng ta cũng có thể, nếu được huấn luyện đúng cách, và gặp đúng “thời tiết nhân duyên”, sẽ trực nhận được tự tính tâm và nhờ thế biết được trong ta có cái bất tửvĩnh viễn thuần tịnh. Đấy là sự hứa hẹn trong mọi truyền thống huyền học của nhân loại, và nhiều ngàn người đã và đang thực chứng điều đó.

Điều kỳ diệu của sự hứa hẹn này là, nó không phải là một cái gì thần kỳ, xa lạ gì cả, nó không phải chỉ dành cho một số ít người xuất sắc được chọn lọc, mà dành cho toàn thể loài người; và khi trực nhận được bản tâm, thì thấy như lời các thiền sư bảo, nó bình thường một cách kỳ lạ. Chân lý về tâm không phải là một cái gì rắc rối bí truyền, nó kỳ thực là lương tri sâu xa. Khi ta trực ngộ bản tâm, thì những tầng lớp mê lầm rơi rụng. Thực sự không phải là bạn “thành” Phật, mà bạn chỉ có chấm dứt mê hoặc, hết bị ảo tưởng lừa dối. Và thành Phật không có nghĩa là thành một siêu nhân có nhiều quyền năng tâm linh, mà thành một con người đúng nghĩa.

Một trong những truyền thống lớn của Phật giáo Tây Tạng gọi bản chất của tâm là “trí tuệ của bình thường”. Tôi phải nhắc lại lời này nhiều lần mới được: Tự tính chân thực của chính ta, với bản tính của mọi sự vật không phải là một cái gì lạ lùng. Điều mỉa mai là, chính cái thế giới mà ta gọi là thường nhật ấy mới thực lạ lùng, một màn ảo hóa li kỳ tinh vi của cái thấy mê lầm trong sinh tử. Chính cái thấy “lạ lùng” ấy đã làm ta mù mắt đối với bản tính tự nhiên, “bình thường” của tâm. Hãy thử tưởng tượng những vị Phật đang nhìn xuống chúng ta: các ngài sẽ kinh ngạc đau buồn xiết bao để thấy sự khôn lanh chết người, và tính phức tạp trong cái vô minh của chúng ta.

Đôi khi, chính vì ta vẫn thường rắc rối một cách không cần thiết, mà khi được một bậc thầy khai thị bản tâm, ta không thể tin được rằng nó quá đơn giản như thế. Cái tâm thường ngày của ta bảo ta rằng không thể thế được, phải có cái gì khác hơn thế chứ. Chắc phải “huy hoàng” hơn, phải có nhiều hào quang xẹt xung quanh ta, có chư thiên với đầu tóc vàng óng bay lả tả từ trên trời sà xuống gặp ta mà loan tin “Thế là bạn đã được khai thị bản tâm rồi đấy”. Hoàn toàn không có cái màn ấy đâu.

Vì trong nền văn hóa chúng, ta, chúng ta đã quen đánh giá tri thức quá cao, nên ta cứ tưởng rằng muốn giác ngộ thì cần phải có một trí thông minh phi thường. Tây Tạng có một ngạn ngữ rằng: “Nếu bạn quá thông minh, bạn có thể hụt mất hoàn toàn cái cốt tủy.”

Patrul Rinpoche nói:

- Cái tâm duy lý có vẻ hay đấy, nhưng chính nó là hạt giống của mê lầm.

Con người có thể bị ám ảnh bởi chính những lý thuyết của mình và hụt mất cái cốt tủy trong mọi sự. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Lý thuyết giống như những miếng vá trên chiếc áo, có ngày cũng phải cũ mòn.”

Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện lý thú:

- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một đệ tử rất ngu đần. Ông đã giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ bản tâm, mà y vẫn không ngộ. Cuối cùng, bậc thầy nổi giận bảo, “Này, ngươi hãy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ. Phải đi một mạch cho tới đỉnh núi”. Người đệ tử tuy ngu đần song có lòng sùng kính và hoàn tòan tin tưởng nơi thầy, nên đã làm y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ. Y cứ đi mãi đi mãi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một thời gian dài, và cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất, kiệt sức vì mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giãn, nhẹ nhàng. Y cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ lì đối với giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay lúc ấy, y thình lình trực ngộ bản tâm. Y nghĩ, “Ồ, thì ra đây là cái mà thầy đã chỉ cho ta bấy lâu nay”. Y chạy xuống núi trở về, và trái với mọi quy ước thường ngày y đâm sầm vào phòng thầy. “Con nghĩ rằng con đã được nó... Con thực sự đã được nó!” Vị thầy mỉm cười đầy cảm thông nhìn y mà nói: “Thế là con đã có một chuyến leo núi thú vị đấy chứ?”

Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái kinh nghiệm mà người môn đệ kia đã gặp trên đỉnh núi, và chính cái kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính vô úy để điều đình với sống chết. Nhưng gì là cách tốt nhất, nhanh nhất, và hiệu nghiệm nhất để khởi hành đi tìm nó? Bước đầu tiên là thực tập thiền định. Chính thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho kiệt quệ những ảo tưởng và tập quán của nó, để chúng ta có thể, vào đúng thời tiết, trực nhận ra ta là ai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10256)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11140)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10925)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11167)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11216)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14206)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12444)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26307)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11668)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29227)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11612)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10741)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11051)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10914)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10741)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11304)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10742)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12216)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11270)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10032)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11376)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13364)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11220)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11416)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12655)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13748)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13151)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12774)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12123)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30077)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38075)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24840)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10939)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11695)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10635)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11189)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11490)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12865)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12059)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11268)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10186)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11763)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11169)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10868)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13059)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10167)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10842)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10918)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14488)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10663)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21911)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12035)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11399)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30135)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19553)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20525)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12527)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12504)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21130)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13223)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14412)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30367)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 27946)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28307)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20905)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28609)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27177)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21895)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21421)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26174)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21569)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23371)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26367)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23149)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19785)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22887)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21101)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19937)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15385)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39169)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25603)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14097)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26014)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22491)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29077)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22502)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22813)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13170)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23154)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13129)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28916)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30430)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14209)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26206)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33168)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35494)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8575)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13272)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30589)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22076)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant