Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Giúp đỡ sau khi chết

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12232)
19. Giúp đỡ sau khi chết


Trong thế giới tân tiến, rất thường khi một người nào chết, thì một trong những nỗi lo sầu nhất cho người ở lại là nghĩ rằng họ không thể làm gì để giúp đỡ những người thân yêu đã mất. Ðó là một niềm tin chỉ làm cho sự sầu khổ của họ càng thêm trầm trọng. Nhưng sự thực không phải thế. Có nhiều, rất nhiều cách chúng ta có thể giúp người đã chết, và tự giúp cả chúng ta để sống vắng bóng họ. Một trong những đặc điểm của đạo Phật, một trong những đường lối chứng tỏ phương tiện thiện xảotâm từ bi của chư Phật là có rất nhiều pháp tu đặc biệt để giúp người chết, và còn an ủy được tang quyến đau buồn. Tử Thư có lối nhìn bao quát cả sống và chết, cho ta thấy rằng có nhiều cách giúp đỡ người khác trong mọi tình huống có thể nghĩ tới, bởi vì không có một ranh giới nào giữa cái gọi là “sinh” và cái gọi là “tử”. Năng lực sáng chói và sự ấm áp của tâm từ bi có thể vươn tới để giúp đỡ tất cả mọi tình huống, mọi cảnh giới.
 
 

Khi nào ta có thể giúp

Trung Ấm tái sinh, như đã nói, dường như là một thời gian hết sức rầy rà đáng ngại. Nhưng trong đó có niềm hy vọng lớn lao. Những tính chất của thân ý sanh suốt trong giai đoạn Trung Ấm làm cho nó dễ bị thương tổn - sự sáng suốt của nó, di động, nhạy cảm, và thần thông - song cũng làm cho nó đặc biệt dễ cảm thụ đối với sự giúp đỡ của người sống. Sự kiện nó không có hình dạng vật lý làm cho nó rất dễ hướng dẫn. Tử Thư Tây Tạng ví thân ý sanh này như một con ngựa, dễ dàng được điều khiển với sợi dây cương hoặc với một thân cây khổng lồ, khi ở trên đất thì có thể là khó di chuyển, nhưng khi đã nổi bềnh bồng trên mặt nước thì bạn có thể đưa nó đi bất cứ đâu tùy ý, không cần nỗ lực.

Thời gian tốt nhất để tu tập cho người chết là 49 ngày Trung Ấm tái sanh, mà 3 tuần đầu là quan trọng nhất. Chính trong 3 tuần ấy, người chết có một liên hệ mạnh mẽ với cuộc đời này, làm cho họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của ta. Bởi thế, chính trong thời gian này sự tu tập của ta có thể ảnh hưởng đến tương lai của người chết nhiều hơn cả, hoặc giúp họ giải thoát, hoặc giúp họ có tái sanh tốt đẹp. Vậy ta nên dùng mọi phương tiện ta có thể để giúp họ, vì sau khi hình dạng vật lý của họ bắt đầu quyết định, - thường là khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - thì cơ hội chuyển nghiệp cho họ càng bị hạn chế.

Tuy nhiên sự giúp đỡ người chết không chỉ giới hạn trong 49 ngày sau khi chết. Không bao giờ quá muộn để giúp đỡ người nào đã chết, dù họ chết lâu bao nhiêu về trước. Người mà bạn muốn giúp có thể đã chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, vẫn còn được lợi lạc. Dudjom Rinpoche thường nói ngay cả khi người ấy đã đạt giác ngộ, họ vẫn còn cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể dùng để giúp lại kẻ khác.
 
 

Ta có thể giúp đỡ như thế nào

Cách tốt nhất và dễ nhất để giúp đỡ một người chết là làm pháp Chuyển di tâm thức tinh yếu mà tôi đã trình bày trong chương 13, khi chúng ta nghe một người nào đã chết.

Tây Tạng, chúng ta nói cũng như bản chất của lửa là đốt cháy, của nước là giải khát, bản chất của chư Phật là hiện thân ngay khi người nào triệu thỉnh, vì từ bi của các ngài là vô hạn, muốn giúp đỡ tất cả hữu tình. Ðừng bao giờ tưởng tượng rằng bạn cầu nguyện không hiệu quả bằng một “người thánh thiện” cầu nguyện cho họ. Bởi vì bạn gần với người chết hơn, nên mãnh lực của tình yêu và chiều sâu của mối liên hệ sẽ làm cho sự cầu nguyện của bạn có năng lực hơn.

Các bậc thầy đã bảo đảm với chúng ta : hãy kêu cầu với chư Phật, các ngài sẽ đáp ứng bạn.

Khandro Tsering Chodron, người vợ tâm linh của Jamyang Khientse, thường nói rằng, nếu bạn thực sự có tâm tốt và có ý định chân thành, thì khi bạn cầu cho người nào, sự cầu nguyện sẽ rất hiệu nghiệm. Bởi thế, hãy tin tưởng rằng nếu người nào bạn rất thương yêu đã chết, và nếu bạn cầu nguyện cho họ với tình yêu và lòng chân thành, thì sự cầu nguyện của bạn sẽ có hiệu lực đặc biệt.

Cách tốt nhất, hiệu quả nhất để làm pháp Chuyển di là trước khi thi thể bị chạm tới hay bị di chuyển bất cứ cách nào. Nếu điều này không thể thực hiện, hãy làm pháp Chuyển di tại chỗ mà người ấy đã chết, hay ít nhất tưởng tượng rõ rệt hình ảnh nơi ấy trong tâm bạn. Có một liên hệ mãnh liệt giữa người chết với nơi chốn và thời gian chết, nhất là trong trường hợp người chết bạo tử.

Trong cõi Trung Ấm tái sanh, như tôi đã nói, tâm thức người chết sống trở lại cái kinh nghiệm chết mỗi tuần một lần, vào đúng ngày hôm ấy. Bởi thế bạn nên làm pháp Chuyển di, hay bất cứ pháp môn tu nào bạn đã chọn, vào bất cứ ngày nào trong 49 ngày, nhưng đặc biệt là vào những ngày tuần của người chết.

Mỗi khi người bà con hay bạn bè đã chết hiện lên trong tâm trí bạn, mỗi khi bạn nghe tên người ấy được nhắc tới, thì hãy gởi đến họ niềm yêu thương của bạn, và tập trung làm phép Chuyển di. Làm pháp ấy bao lâu tùy ý, và càng nhiều lần càng tốt.

Một điều khác bạn có thể làm, mỗi khi bạn nghĩ tới người nào đã chết, là đọc ngay một câu chú như OM MANI PADME HUM, thần chú của đức Phật của lòng từ mẫn, tịnh hóa được tất cả ác nghiệp đưa đến tái sanh ; hoặc câu OM AMI DEWA HRIH, thần chú của đức A Di Ðà, vị Phật của ánh sáng vô lượng. Rồi bạn có thể tiếp theo bằng pháp Chuyển di.

Nhưng dù bạn có làm bất cứ pháp môn nào trên đây để giúp người chết hay không làm, đừng bao giờ quên rằng tâm trong cõi Trung Ấm rất bén nhạy, bạn chỉ cần hướng những thiện cảm đến họ cũng đủ lợi lạc cho họ rồi.

Khi bạn cầu nguyện cho người nào thân thiết, bạn có thể, nếu muốn, bao gồm cả những người đã chết khác trong lời cầu nguyện : những nạn nhân của chiến tranh, tàn bạo, tai ách, đói kém, hoặc những người đã và đang chết trong các trại tập trung, như tại Trung QuốcTây Tạng. Bạn có thể cầu nguyện cho những người đã chết nhiều năm về trước, như ông bà cố của bạn và những người trong gia đình đã chết từ lâu, hay những nạn nhân trong hai cuộc thế chiến. Hãy tưởng tượng lời cầu nguyện của bạn đặc biệt trải đến những người đã chết trong cơn giận dữ, lo lắng hãi hùng.

*
 
 

 Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh. Khi bạn làm pháp Chuyển di cho họ, hãy làm với mức độ mãnh liệt tha thiết hơn bao giờ cả.

Hãy tưởng tượng những tia sáng chói lọi tuôn phát từ chư Phật và Bồ-tát, trút xuống tất cả ân sủng từ bi của các ngài. Tưởng tượng ánh sáng ấy tuôn xối trên người chết, tịnh hóa họ hoàn toàn, giải thoát họ khỏi nỗi đau đớn rối loạn của cái chết, đem lại cho họ an bình sâu xa lâu dài. Rồi tưởng tượng, với tất cả tâm hồn bạn, người chết đang tan thành ánh sáng và tâm thức họ bây giờ đã được chữa lành, thoát mọi khổ đau và bay lên hòa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật.

Một vài người Tây phương vừa qua viếng thăm Tây Tạng đã kể cho tôi nghe một câu chuyện mà họ chứng kiến. Một ngày nọ, một người Tây Tạng đang đi bộ bên lề đường, bị một chiếc xe cam-nhông của Trung Quốc đụng chết ngay tức khắc. Khi ấy, một tu sĩ tình cờ đi qua, vội vàng đến ngồi cạnh người chết nằm trên đất. Họ trông thấy tu sĩ ghé vào tai người chết đọc một câu gì đó ; thình lình họ kinh ngạc thấy người chết sống lại. Khi ấy tu sĩ làm pháp Chuyển di tâm thức cho người ấy, và hướng dẫn ông ta an tịnh đi vào cõi chết. Cái gì đã xảy ra ? Rõ ràng vị tu sĩ đã nhận thấy nỗi kinh hoàng của người kia, làm cho y rất giao động khi chết, nên vị tu sĩ đã hành động chớp nhoáng : trước hết giải thoát tâm người chết khỏi nỗi đau buồn, rồi sau đó, nhờ pháp Chuyển di, đưa thần thức họ về một cõi Phật, hoặc một tái sanh tốt. Ðối với những người Tây phương chứng kiến việc ấy, thì tu sĩ có vẻ chỉ là một người bình thường, nhưng câu chuyện này chứng tỏ ông là một hành giảnăng lực rất đáng nể.

Thiền địnhcầu nguyện không phải là cách duy nhất ta có thể làm để giúp người chết. Chúng ta có thể bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, để hồi hướng cho họ. Chúng ta có thể đem tài sản họ để lại để cho người nghèo. Ta có thể nhân danh họ mà đóng góp vào các việc nghĩa như sung vào bệnh viện, cứu trợ, tiếp dẫn đường hay tu viện.

Ta cũng có thể bảo trợ cho các khóa tu nhập thất của những hành giả tốt, hay lễ cầu nguyện do những bậc thầy vĩ đại hướng dẫn ở những nơi thiêng liêng như Bồ đề tràng. Ta có thể cúng đốt đèn cho người chết, hay bảo trợ những công trình mỹ thuật liên hệ đến việc tu tập. Một phương pháp giúp đỡ người chết nữa là phóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này thịnh hànhTây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn.

Ðiều quan trọng là hồi hướng công đức những thiện sự ấy cho người chết, cho tất cả người chết, để mọi người đã chết có được một tái sanh tốt và hoàn cảnh thuận lợi trong đời kế tiếp của họ.
 
 

Sự thấu thị của người chết

Hãy nhớ rằng tâm thức người trong cõi Trung Ấm sáng suốt bén nhạy gấp bảy lần khi sống. Ðiều này có thể làm cho họ đau khổ lớn hoặc lợi lạc lớn.

Bởi thế, điều cốt yếu là, khi một người thân chết, bạn phải càng cẩn thận càng tốt, trong tất cả hành vi cử chỉ bạn, để khỏi quấy rầy họ, làm họ tổn thương. Vì khi người chết trở về nhà với những người thân còn lại, hay với những người tụng niệm làm phép cho họ, thì trong tình trạng mới của tâm thức họ, họ có thể không những trông thấy những gì đang xảy ra, mà còn đọc được trong tâm những người khác. Nếu bà con chỉ âm mưu tranh đoạt chia gia tài họ để lại, hay chỉ nói và nghĩ về ân oán, không co tình thương chân thực đối với người chết, thì họ có thể vô cùng tức giận, đau khổ, vỡ mộng, và do đó sẽ bị lôi kéo vào những cảm xúc dữ dội mà phải đi vào một tái sanh bất hạnh.

Chẳng hạn, hãy tưởng tượng nếu người chết thấy người ta tụng kinh cho mình không thành khẩn, tâm người tụng bận rộn với những việc giải trí tầm thường thì họ có thể mất tất cả chút niềm tin nào họ có thể có. Hãy tưởng tượng nếu một người chết phải nhìn những người thân buồn sầu thảm thiết, cũng có thể làm cho họ vô cùng áo não. Và nếu ví dụ người chết khám phá ra rằng bà con chỉ giả vờ yêu thương họ vì tiền, thì họ cũng có thể đau khổ vỡ mộng đến nỗi sẽ thành ma trở về ám ảnh người hưởng gia tài mình để lại. Bây giờ bạn đã thấy những gì bạn làm, nghĩ, hay cư xử sau khi một người thân chết, có thể có tầm quan trọng ghê gớm và ảnh hưởng lớn lao đến tương lai họ nhiều hơn bạn tưởng.

Bạn cũng sẽ thấy tại sao điều thật thiết yếu cho tâm linh người chết được an ổn, là những người còn lại phải hòa hợp. Bởi thế, ở Tây Tạng khi bà con bạn bè người chết tụ hội lại, họ thường được khuyến khích hãy cùng tụng đọc với nhau càng nhiều càng tốt một câu thần chú như OM MNI PADME HUM. Ðiều này ai ở Tây Tạng cũng có thể làm, vì biết nó chắc chắn sẽ giúp đỡ người chết. Bởi thế, câu thần chú này gây cho họ nguồn cảm hứng để cùng nhau tụng đọc trong niềm sùng tín. Tính thiêng liêng của người chết trong cõi Trung Ấm cũng khiến nếu được một bậc thầy hay hành giả tâm linh giàu kinh nghiệm làm lễ, người chết sẽ được lợi lạc vô cùng. Ðiều vị ấy là là an trú trong tự tánh tâm nguyên ủy, rồi hô triệu thân ý sanh của người chết đang lang thang trong cõi Trung Ấm. Khi thân ý sanh đã đến trước bậc thầy, do năng lực thiền định của ông, ông có thể khai thị bản tánh thanh tịnh cho người chết. Nhờ năng lực thần thông, người chết thấy được tâm giác ngộ của vị thầy, và ngay tại chỗ được giải thoát.

Những cũng chính vì lý do đó, mà bất cứ gì một hành giả thông thường có thể làm cho người chết, cũng có thể giúp họ rất nhiều. Bạn có thể tu tập pháp quán một trăm vị thần an lạcphẫn nộ liên hệ Tử Thư Tây Tạng, hay bạn có thể chỉ an trú trong một tâm trạng bi mẫn ; nhất là nếu khi ấy bạn có triệu thỉnh hương linh người chết, thì họ được lợi lạc vô cùng.

Mỗi khi hành giả Phật tử chết, chúng tôi báo cho tất cả thầy và bạn đạo của họ biết để có thể khởi sự hành pháp cầu siêu cho họ ngay. Thường tôi thâu thập tên những người đã chết, rồi gửi đến cho những bậc thầy lớn mà tôi biết ở Ấn và Hy Mã Lạp Sơn. Cách vài tuần, các vị này làm pháp thanh luyện cho họ một lần, và mỗi năm có một thiền hội mười ngày để cầu siêu tập thể tại các tu viện.
 
 

Cách Tây Tạng cầu siêu người chết

1- Tử Thư Tây Tạng

Tại Tây Tạng, khi pháp Chuyển di đã làm cho người chết xong, quyển Tử Thư được đọc đi đọc lại nhiều lần, và những pháp tu liên hệ được thực hành. Ở miền Ðông Tây Tạng, chúng tôi thường có truyền thống đọc Tử Thư suốt 49 ngày sau khi chết. Qua đó, người chết được chỉ cho biết họ đang ở giai đoạn nào trong tiến trình, và được cho những chỉ dẫn hay cảm hứng mà họ cần.

Những người Tây phương thường hỏi tôi : “Làm sao một người đã chết có thể nghe đọc Tử Thư ?”

Câu trả lời giản dị là : Tâm thức người chết khi được hô triệu bởi năng lực của lời kinh, thì có thể đọc được tâm ta và có thể cảm nhận đúng những gì mà ta có thể nghĩ hay thiền định về họ. Bởi thế, không có chướng ngại nào cho người chết để hiểu được Tử Thư Tây Tạng đang đọc cho họ, dù là đọc bằng Tạng ngữ.

Ðối với người chết thì ngôn ngữ không là một trở ngại, vì tâm họ có thể đọc được ý nghĩa cốt yếu của kinh văn.

Ðiều này khiến cho sự tập trung tâm ý của người hành lễ càng thêm quan trọng, chứ không phải chỉ làm chiếu lệ mà được. Và bởi vì người chết đang thực sự sống những kinh nghiệm đề cập trong sách, nên họ có thể có nhiều khả năng hơn ta để hiểu chân lý của Tử Thư.

Ðôi khi tôi tự hỏi : “Nhưng nếu lỡ tâm thức đã ngất xỉu và rơi vào tình trạng quên lãng vào lúc chết thì sao ?” . Vì ta không biết bao lâu người chết sẽ ở trong trạng thái hôn mê, và lúc nào thì họ bắt đầu đi vào Trung Ấm tái sanh, nên Tử Thư được đọc và tu luyện liên tục để phòng hờ.

Nhưng còn những người không quen thuộc với giáo lý hay Tử Thư thì sao ? Chúng ta có nên đọc cho họ nghe không ? Ðức Dalai Lama đã cho một lời chỉ dẫn rõ ràng :

Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết... Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sanh của họ vẫn hiện hữu, bởi thế một tâm an bình là quan trọng vào lúc chết. Nếu người chết là một kẻ vô thần, thì việc đọc Tử Thư có thể làm tâm họ giao động, có thể gợi sự thù ghét, và bởi thế có thể hại họ hơn là giúp họ. Nhưng nếu người nào mở lòng ra mà nghe, thì những câu thần chú hay danh hiệu Phật trong đó có thể giúp họ “kết nhân duyên” và nhờ thế có thể có ích lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng trên hết là xét thái độ của người chết.

2- Né Dren và Chang Chok

Cùng với việc đọc Tử Thư còn có lễ Né Dren để hướng dẫn hương linh, hay lễ Chang Chok để tịnh hóa hương linh, trong đó bậc thầy sẽ hướng dẫn người chết đến một tái sanh tốt.

Tốt nhất, hai lễ ấy nên làm ngay sau khi chết, hay ít nhất trong vòng 49 ngày. Nếu thi thể không có đấy, thì nên hô triệu thần thức người chết về trong một hình nhân hay tấm thẻ “bài vị” có hình và tên họ người ấy, gọi là một “tsenjang”. Lễ này có năng lực nhờ ở sự kiện rằng thời gian ngay sau khi chết, người chết thường có một ấn tượng mạnh về thân xác mình trong đời vừa qua.

Nhờ năng lực thiền quán của bậc thầy, thần thức người chết đang lang thang trong cõi Trung Ấm, được gọi về trong tấm thẻ bài hay tấm ảnh tượng trưng cho họ.

Thần thức khi ấy được tịnh hóa, lọc sạch những hạt giống nghiệp trong sáu cõi, rồi được nghe một bài thuyết pháp giống như lúc còn sống ở đời ; và người chết khi ấy được khai thị bản tâm. Cuối cùng, lễ Chuyển di tâm thức được thực hiệnthần thức người chết được hướng dẫn đến một trong các cõi Phật. Sau đó tsenjang (hình nhân hay thẻ bài) được đốt, và thế là đã tịnh hóa nghiệp chướng của người chết.

3- Tịnh hóa lục đạo

Thầy tôi, Dilgo Khientse Rinpoche thường bảo, lễ “Tịnh hóa lục đạo” là lễ thanh luyện tốt nhất cho một hành giả đã chết.

Sự tu tập để tịnh hóa lục đạo này thường làm khi sống, dùng thiền địnhquán tưởng để thanh lọc thân xác khỏi sáu phiền não chính, cùng với sáu cõi mà phiền não ấy tạo nên. Pháp này cũng có thể làm cho người chết rất hiệu nghiệm, vì nó thanh lọc căn bản nghiệp của họ,ï và do đó thanh lọc cái gốc rễ của tương quan giữa họ với sinh tử. Ðiều này quan trọng, vì nếu cảm xúc tiêu cực (phiền não) không tịnh hóa, thì chúng sẽ điều động thần thức tái sanh vào cõi nào đó trong lục đạo.

Theo mật điển Dzogchen, những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong hệ tâm-vật-lý là những huyệt đạo vi tế, nội phong hay năng lực, và nhóm lại ở một vài trung tâm năng lực (huyệt) đặc biệt trong cơ thể. Bởi thế, hạt giống của địa ngục và nhân của nó là giận dữ, được định vị trí ở dưới hai gót chân ; cõi ngạ quỷ và nhân của nó là dục tham, gốc ở bàn tọa ; cõi súc sinh và nhân của nó là ngu si thì có vị trí ở rốn ; cõi người và nhân của nó là hoài nghi, có trị tri ở tim ; cõi tu-la và nhân của nó là ganh tị nằm ở yết hầu ; cõi trời và nhân của nó là kiêu mạn, thì có vị trí ở đỉnh đầu.

Trong pháp tu tập để tịnh hóa lục đạo, khi mỗi cõi và cảm xúc tiêu cực của nó được thanh lọc, hành giả quán tưởng tất cả nghiệp do cảm xúc đặc biệt ấy tạo nên bây giờ đã khô kiệt, và thân phần liên hệ đến nghiệp của cảm xúc ấy hoàn toàn tan thành ánh sáng. Bởi thế, khi bạn làm pháp tu luyện này cho một người chết, thì hãy nhất tâm quán tưởng rằng, sau khi làm xong, tất cả nghiệp được thanh tịnh và thân họ, toàn bản thể họ tan thành ánh sáng rực rỡ.

4- Pháp tu quán một trăm vị thần an lạc và phẫn noä

Một cách khác để giúp người chết là sự hành trì Trăm vị thần an lạcphẫn nộ (những thần này đã được nói ở chương 17 - “Tia sáng nội tâm”). Hành giả quán toàn thân thể mình là một mandala của trăm vị thần an lạcphẫn nộ ; chư thần an lạc được quán ở huyệt tim, chư thần phẫn nộ ở não. Hành giả khi ấy tưởng tượng chư thần phát ra ngàn tia sáng chan hòa lên trên người chết để tịnh hóa tất cả ác nghiệp của họ.

Thần chú để tịnh hóa mà hành giả tụng đọc là thần chú Kim cương tát đỏa, vị thần chủ trì tất cả mandala của Mật giáo, và là vị thần ở trung ương trong mandala một trăm vị thần an lạcphẫn nộ, mà năng lực được hô triệu cốt để tịnh hóa và chữa bệnh. Thần chú này là “Thần chú một trăm ngữ âm”, bao gồm trăm “chủng tự” của trăm vị thần ấy. Bạn có thể xử dụng một dạng ngắn gồm sáu âm của thần chú Kim cương tát đỏa (Vajrasattva) là OM VAJRA SATTVA HUM (Tạng ngữ Om Benza Sattb Hung). Ý nghĩa câu này là “Hỡi thần Kim cương tát đỏa ! Nhờ năng lực của ngài, xin cho con được tịnh hóa, được chữa lành, được chuyển nghiệp”.

Một bài chú quan trọng khác trong mật điển Dzogchen và trong hành trì liên hệ đến Tử Thư Tây Tạng là A A HA SHA SA MA. Sáu âm của bài chú này có năng lực “đóng cửa ngõ” đi vào lục đạo luân hồi.

5- Hỏa táng

Thông thường trong nhiều truyền thống Ðông phương, hỏa táng là cách để thanh toán thây chết. Trong Phật giáo Tây Tạng cũng có những pháp hành đặc biệt cho lễ hỏa táng. Chỗ hỏa táng hay dàn hỏa táng được quán tưởng thành mandala của Kim cương tát đỏa, hay Trăm vị thần an lạcphẫn nộ. Chư thần được quán tưởng mãnh liệt, sự hiện diện của họ được triệu thỉnh. Cái thây của người chết được quán như thực sự đại diện cho tất cả nghiệp ácchướng ngại của họ. Khi cái thây bùng cháy, những ác nghiệp chướng ngại ấy được chư thần tiêu thụ trong một bữa tiệc lớn, chuyển hóa chúng thành ra bản chất trí tuệ. Những tia sáng được tưởng tượng như là tuôn phát từ chư thần ; cái xác được quán đang tan rã hoàn toàn thành ánh sáng, và tất cả bất tịnh của người chết được tịnh hóa trong ngọn lửa rực rỡ của trí tuệ. Khi quán tưởng điều này, ta có thể tụng đọc thần chú một trăm âm hay sáu âm của Kim cương tát đỏa. Sự tu tập giản dị này dành cho lễ hỏa táng là do Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche truyền lại.

Tro của cái xác và tsenjang (hình nhân, bài vị...) khi ấy có thể trộn với đất sét mà làm thành những hình tượng nhỏ gọi là tsatsa, được chú nguyện và dâng hiến nhân danh người chết để tạo những duyên tốt cho một tái sanh tốt đẹp trong tương lai.

6- Cúng tuần

Trong một môi trường Tây Tạng, những cuộc hành thiền tu tập xảy ra đều đặn mỗi ngày thứ bảy sau khi chết, hay nếu gia đình có thể lo liệu, thì suốt cả 49 ngày. Những tu sĩ được mời đến hành pháp, nhất là những vị Lama thường gần gũi gia đình ấy và có liên hệ với người chết. Ðèn được thắp sáng và liên tục đọc kinh cầu nguyện, cho đến khi cái xác được đưa ra khỏi nhà. Những phẩm vật được cúng dường lên các vị thầy và các bàn thờ, và phát chẩn cho kẻ nghèo nhân danh người chết.

Những pháp hành hàng tuần nhân danh người chết được xem là thiết yếu, vì thân ý sanh trong cõi Trung Ấm đang kinh quá cái chết của mình trở lại đúng vào ngày ấy mỗi tuần. Nếu người chết có đủ công đức do kết quả của thiện nghiệp quá khứ, thì lợi lạc của những pháp này, hành trì nhân danh họ, sẽ làm cái đà để chuyển họ đến một cõi thanh tịnh. Nói thật chính xác, thì nếu người ấy chết ngày thứ tư trước ngọ, thì tuần thứ nhất sẽ làm vào thứ ba tuần sau đó. Nếu chết sau ngọ, thì làm tuần vào ngày thứ tư tuần sau.

Người Tây Tạng xem tuần thứ tư sau khi chết là một ngày có ý nghĩa đặc biệt, vì có người nói bình thường người chết không ở trong cõi Trung Ấm lâu hơn 4 tuần. Tuần thứ bảy cũng được xem là một khúc quanh quan trọng, vì 49 ngày được xem là thời hạn lâu nhất trong cõi Trung Ấm đi đầu thai. Bởi thế, vào những dịp này, thầy và các bạn đạo sẽ được mời đến nhà, và những sự tu tập, cúng dường, bố thí... được thực hiện đại quy mô.

Một lễ cúng khác được thực hiện mỗi năm một lần sau khi chết, để đánh dấu ngày tái sanh của người chết. Phần đông gia đình Tây Tạng thường làm lễ mỗi năm một lần vào những ngày giỗ thầy, giỗ cha mẹ, chồng vợ, anh chị em của họ. Vào những ngày ấy họ cũng bố thí cho người nghèo.
 
 

Giúp đỡ người đau buồn

Trong cộng đồng Tây Tạng, mỗi khi một người nào chết, thì điều tự nhiênthân quyến bạn bè họ tụ họp lại, và mọi người tìm cách này cách khác để giúp một tay. Toàn thể cộng đồng đem lại cho tang gia sự nâng đỡ tinh thần, tình cảm và thực tế, nên nhà có người chết không bao giờ bị bỏ mặc cho cảm thấy vô phương không biết phải làm gì. Mọi người trong xã hội Tây Tạng biết họ phải làm những gì họ có thể làm cho người chết, càng nhiều càng hay, và chính điều đó giúp tang quyến có thể chịu đựng, chấp nhận cái chết của người thân để tiếp tục sống.

Thật là khác xa với xã hội tân tiến, trong đó sự nâng đỡ của cộng đồng hầu như hoàn toàn không có. Tôi nghĩ sự nâng đỡ như thế thường đã giúp ích xiết bao cho thân quyến người chết khỏi kéo dài nỗi đau buồn và những khó khăn không cần thiết.

Những học trò tôi, làm cố vấn tỉnh cảm trong các Tiếp dẫn đường, cho tôi biết một trong những nguyên nhân buồn khổ trầm trọng nhất của một người mất mát người thân, là nghĩ rằng bản thân họ cũng như bất cứ ai, không ai có thể làm gì cho những thân quyến đã mất của họ. Nhưng như tôi đã nói, có rất nhiều việc mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cho người đã chết.

Một cách an ủi người đau buồn là khuyến khích họ làm cái gì cho những người thân của họ đã chết : bằng cách sống hăng hái hơn, sống thay cho người chết, tu thay cho họ, và đem lại cho cái chết của họ một ý nghĩa sâu xa hơn. Ở Tây Tạng người ta còn đi hành hương nhân danh người đã chết, và vào những thời gian đặc biệt và nơi chốn thiêng liêng, họ sẽ nghĩ đến những người thân đã chết và tu tập để hồi hướng cho họ. Người Tây Tạng không bao giờ quên người chết : họ thường cúng chùa nhân danh người chết ; khi có những lễ hội cầu nguyện lớn, họ sẽ cúng vào đó nhân danh người chết ; họ tiếp tục hiến tặng cho những chương trình tu học nhân danh người chết, và lúc nào gặp những bậc thầy họ cũng xin lời cầu nguyện đặc biệt cho người chết. Niềm an ủi lớn nhất cho một người Tây Tạng là khi biết một bậc thầy đang tu tập hồi hướng công đứ cho thân nhân đã chết của họ.

Vậy thì đừng để cho ta chết đi một nửa theo với người chết ; ta hãy cố sống sau khi họ chết với niềm hăng say hơn nữa. Ta hãy cố ít nhất làm tròn ước nguyện của người chết, ví dụ bằng cách bố thí vài sở hữu của họ cho hội từ thiện, hay bảo trợ nhân danh họ cho một dự án mà họ thường ưa chuộng.

Những người Tây Tạng thường viết thư chia buồn với bạn bè đang khóc người thân với những lời đại khái như sau :

“Mọi sự đều vô thường, mọi người rồi phải chết, bạn đã biết. Vậy mẹ bạn có chết cũng là điều tự nhiên : thế hệ già chết trước. Bà cụ đã già yếu, chắc cũng không ân hận gì khi bỏ thân xác này. Và vì bạn có thể giúp bà bằng cách cúng vào các thiền hội tu tập và làm việc thiện nhân danh bà, chắc chắn bà sẽ sung sướng nhẹ nhàng. Vậy bạn đừng buồn” .

Nếu bạn ta có con hay một người thân còn trẻ chết, chúng ta có thể nói với họ :

“Con trai bạn đã chết, thật là như trời long đất lỡ với bạn. Tôi biết điều đó thật tàn nhẫn phi lý. Tôi không thể nào hiểu được. Nhưng có lẽ cái nghiệp của cháu là phải chết, và tôi tin rằng cái chết ấy chắc đã thanh toán được một món nợ nghiệp nào đó mà bạn và tôi không thể biết. Nỗi đau buồn của bạn cũng là của tôi. Nhưng hãy nhớ rằng, bây giờ bạn và tôi có thể giúp cháu, bằng sự tu tập của chúng ta, thiện nghiệp chúng ta, tình thương của chúng ta ; chúng ta có thể cầm tay cháu mà bước bên cạnh cháu ngay bây giờ, dù cháu đã chết, để giúp cháu có được một tái sanh mới và một đời sống dài hơn lần sau” .

Trong thế giới hiện nay của chúng ta, nơi mà ta không biết được cả đến chuyện có thể giúp đỡ người chết, nơi mà ta chưa từng đối mặt cái chết một lần nào trong đời, thì chuyện tư duy sáng suốtbình tĩnh như vậy không phải dễ. Một người lần đầu tiên khóc người thân có thể phải tan nát cõi lòng vì những cảm xúc rối bời như buồn, giận, chối bỏ, rút lui, mặc cảm phạm tội... thình lình tàn phá tâm hồn họ. Muốn giúp những người như thế, bạn cần sự kiên nhẫntế nhị. Bạn cần thời gian ngồi với họ để cho họ nói, lắng nghe không phê phán mỗi khi họ nhớ lại những hoài niệm riêng tư nhất, hoặc cứ tái đi tái lại từng chi tiết của cái chết. Trên tất cả, có thể bạn chỉ cần ở đấy với họ, lúc mà họ đang kinh quá nỗi đau buồn khốc liệt nhất trong đời. Hãy sẵn sàng đến với họ bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc họ có vẻ không cần hiện diện của bạn. Carol, một góa phụ, khi được hỏi ai giúp bà nhiều nhất trong lúc chồng bà chết, đã trả lời : “Những người tiếp tục gọi điện thoại và ghé thăm, ngay cả khi tôi nói không cần” .

Những người buồn khổ cũng như đang trải qua một loại chết. Cũng như người chết, họ cần biết rằng những cảm xúc rối ren mà họ đang kinh quá là điều tự nhiên. Họ cũng cần biết rằng tiến trình tang tóc thường cam go và dài đăng đẳng, khi nỗi đau buồn cứ tái đi tái lại theo chu kỳ. Nỗi kinh hoàng tê tái không tin ban đầu sẽ tàn phai, nhường chỗ cho một ý thức sâu xa tuyệt vọng về sự mất mát vô biên của họ, mà cuối cùng cũng sẽ hồi phục, trở lại thế quân bình. Hãy cho họ biết đây là một mẫu mực sẽ trở lại nhiều lần, tháng này qua tháng khác, và tất cả những cảm giác đau khổ, sợ hãi không thể chịu đựng, tưởng chừng như không còn sống ra con người được nữa, cũng chuyện là chuyện bình thường. Cho họ biết rằng, dù họ có thể đau đớn trong một, hai năm, nỗi đau của họ chắc chắn rồi cũng đi đến kết thúc và chuyển thành sự chấp nhận.

Judy Tatebaum nói :

“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ý để hàn gắn. Hàn gắn một nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó một cách công khai, thẳng thắng, bộc lộ và phóng thích trọn vẹn nó, chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần để cho vết thương lành lại. Thường ta cứ sợ rằng một khi công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi. Sự thật thì nỗi đau khổ được bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến kết thúc. Ðau khổ mà không bộc lộ được thì cứ kéo dài bất tận”.

Nhưng thông thường, bạn bè và gia quyến của người đau buồn cứ mong cho người ấy “trở lại bình thường” sau vài tháng. Ðiều này chỉ tăng thêm nỗi lạc loài cô lập của họ, khi nỗi đau khổ vẫn tiếp diễn, và có thể càng sâu sắc hơn.

Tây Tạng, như tôi đã nói, toàn thể cộng đồng, bạn bè, bà con, thường tham dự suốt 49 ngày sau khi một người nào chết, và mọi người đều bận rộn trong việc giúp đỡ tâm linh cho người chết, có hàng trăm chuyện để làm. Người đau buồn cứ việc đau buồn, họ khóc lóc chút đỉnh, đó là chuyện tự nhiên, và khi mọi người ra về, thì ngôi nhà có vẻ trống trải. Tuy thế, sự bận rộn lo lắng nâng đỡ của người xung quanh - bằng nhiều cách tế nhị, làm ấm lòng ­ đã giúp họ rất nhiều trong nỗi đau thương tang tóc.

Trong xã hội Tây phương, sự chạm mặt một mình với nỗi mất mát thực là khác hẳn. Và nhất là trong trường hợp một vụ chết đột ngột, tự sát, thì nỗi đau khổ của người ở lại càng tăng cường mãnh liệt. Nó làm cho họ càng cảm thấy bất lực không biết làm sao để giúp đỡ người chết. Ðiều rất quan trọng là để cho người thân đến nhìn thấy xác chết của người chết đột ngột, nếu không, họ rất khó mà nhận ra cái chết thực sự đã xảy đến. Nếu có thể, người ta nên ngồi cạnh xác chết ấy, để nói những gì cần nói, diễn tả niềm yêu thương, và khởi sự nói lời từ biệt.

Nếu điều này không thể thực hiện được, thì hãy đem ra một tấm ảnh của người chết và khởi sự tiến trình từ giã, hoàn tất mối tương quan, rồi buông xả. Hãy khuyên những người có người thân chết nên làm việc này, điều này sẽ giúp cho họ chấp nhận tin buồn, thực tại nát lòng của cái chết. Cho họ biết những cách giúp đỡ người chết như đã nói trên, những cách đơn giản họ có thể làm, thay vì ngồi bó gối một cách vô vọng, nghiền ngẫm về cái chết ấy trong nỗi âm thầm áo não tự trách.

Trong trường hợp một cái chết đột ngột, những người thân thường có thể kinh quá những cảm xúc tức tối trước những gì mà họ cho là nguyên nhân cái chết.

Hãy giúp họ bộc lộ sự tức giận ấy, vì nếu bị giữ lại trong lòng, thì sớm muộn sự tức giận ấy sẽ đưa đẩy họ vào một nỗi áo não kinh niên. Hãy giúp họ buông xả cơn tức giận và cho họ thấy những chiều sâu của nó, là nỗi đau mất mát. Rồi họ có thể khởi sự công việc buông xả, một chuyện gay go nhưng cuối cùng sẽ hàn gắn mối thương tâm.

Cũng có nhiều khi người còn lại sau cái chết của một người thân, cảm thấy mãnh liệt mặc cảm phạm tội, cứ bị ám ảnh bởi những lỗi lầm của mình trong quá khứ với người đã chết, hoặc tự dày vò vì nghĩ đáng lẽ mình có thể làm gì để ngăn cái chết. Hãy giúp họ nói ra những cảm giác phạm tội ấy, dù chúng có vẻ phi lý đến đâu. Dần dà những cảm giác ấy sẽ giảm bớt, và họ sẽ tự tha thứ cho họ để tiếp tục sống nốt cuộc đời của mình.
 
 

Một pháp môn trọng yếu

Bây giờ tôi sẽ cho bạn một phương pháp tu tập có thể giúp bạn rất nhiều, mỗi khi bạn bị đau đớn, buồn sầu kinh khủng. Ðấy là một pháp mà thầy Jamyang Khientse tôi thường dạy cho những người đang kinh quá sự đau khổ tinh thần, dằn vặt tâm can. Và tôi biết với kinh nghiệm bản thân rằng pháp này có thể đem lại nguồn an ủi lớn lao như cất một gánh nặng khổng lồ. Ðời sống của một người giảng dạy trong một thế giới như thế giới phương Tây không phải dễ. Lúc còn trẻ, có những lúc tôi gặp phải khủng hoảng khó khăn, khi ấy tôi luôn luôn triệu thỉnh Padmasambhava, như bây giờ tôi vẫn làm, và nghĩ đến ngài như tất cả các bậc thầy của tôi. Và tôi đã khám phá rằng phương pháp ấy thật có thể chuyển hóa tôi một cách mầu nhiệm, thảo nào các bậc thầy tôi thường nói rằng, pháp hành trì Padmasambhava là hữu ích nhất mỗi khi ta gặp khó khăn, vì pháp này có cái năng lực mà bạn cần để vượt qua sự hỗn loạn, rối ren của thời đại.

Bởi vậy, khi bạn buồn nản, lo sầu, xuống dốc, khi bạn cảm thấy không thể đi thêm được nữa, cảm thấy cõi lòng tan nát, thì tôi khuyên bạn nên áp dụng pháp môn này. Ðiều kiện duy nhất để tu tậphiệu quả là bạn cần phải làm thực tập này với tất cả năng lực của bạn, bạn cần phải xin cầu, và tha thiết xin cầu.

Mặc dù hành thiền, bạn vẫn còn có nhiều cảm xúc đau đớn khổ sở và vô số chuyện từ các đời quá khứ, hoặc đời này nổi lên mà bạn thấy khó thể đương đầu. Bạn có thể thấy mình không đủ trí tuệ và định tĩnh để đối phó với chúng, và một mặt thiền định không mà thôi chưa đủ. Khi ấy điều bạn cần là cái mà tôi gọi “một sự tu luyện từ tim”. Tôi luôn luôn cảm thấy buồn sầu vì người ta không có một kiểu làm như thế để giúp họ trong những lúc khốn đốn. Nếu bạn có làm, bạn sẽ tìm thấy mình có một cái gì vô cùng quý báu, nó sẽ là một nguồn sức mạnh chuyển hóa cuộc đời bạn.

1- Triệu thỉnh

Trong bầu trời trước mặt, bạn hãy triệu thỉnh hiện diện của bất cứ thực thể giác ngộ nào mà bạn có cảm ứng nhất, và xem vị ấy như hiện thân của tất cả chư Phật, Bồ-tát, bậc thầy. Ðối với tôi, hiện thân ấy là Padmasambhava. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra trong tâm nhãn của bạn một hình dạng nào, thì hãy cứ có một cảm giác mãnh liệt về sự hiện diện ấy, và triệu thỉnh năng lực từ biân sủng vô biên của ngài.

2- Hô triệu

Mở lòng bạn ra, và kêu gọi ngài với tất cả nỗi đau đớn khổ sở mà bạn cảm thấy. Nếu bạn cảm thấy muốn khóc thì đừng cố nín, mà cứ việc tuôn ra, và thực tình cầu xin sự giúp đỡ. Hãy biết rằng có một người nào thực sự đang ở đấy để giúp bạn, một người đang lắng nghe bạn, cảm thông bạn với lòng từ mẫn, không bao giờ phê phán bạn : đó là một người bạn chân tình. Hãy hô triệu vị ấy từ đáy sâu nỗi đau đớn của bạn, dùng câu thần chú OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM, thần chú đã được xử dụng hàng bao thế kỷ bởi hàng trăm ngàn người, như một dòng suối để tịnh hóa, chữa lành và che chở.

3- Làm tràn đầy hỷ lạc trong tim

Hãy tưởng tượng và biết rằng vị Phật mà bạn đang kêu cầu ấy đã đáp ứng với tất cả năng lực từ bi và trí giác của ngài. Nguồn ánh sáng rực rỡ từ nơi ngài đang tuôn về phía bạn. Hãy tưởng tượng ánh sáng ấy như vị cam lồ đang rót đầy tim bạn, và chuyển hóa tất cả đau thương của bạn thành hỷ lạc.
 
 

*
 
 

Một cách Padmasambhava xuất hiệnđắp y ngồi trong tư thế thiền, toát ra một cảm giác ấm cúng tiện nghi, với nụ cười yêu thương trên gương mặt ngài. Trong hóa thân này, ngài được gọi là “Ðại lạc”. Tay ngài đặt thoải mái trên hai vế, đỡ lấy một cái tách làm bằng sọ người đựng toàn cam lồ Ðại lạc. Nước cam lồ ấy đang tung tóe khắp nơi để chữa lành mọi đau thương bệnh tật. Ngài ngồi một cách an tịnh trên một tòa sen nở, nằm trong một trái cầu bằng ánh sáng.

Hãy nghĩ về ngài như một mặt trời phúc lạc, suối nguồn của sự nồng nàn yêu thương, an ủi, chữa lành. Hãy mở lòng bạn ra, tuôn ra tất cả đau khổ của bạn, cầu xin cứu giúp. Và đọc câu thần chú của ngài : OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM.

Bây giờ, hãy tưởng tượng hàng ngàn tia sáng tuôn ra từ nơi thân ngài hay từ tim ngài. Tưởng tượng ngài đang vui vẻ chan rưới vị cam lồ liên tục trên người bạn, một thứ ánh sáng như chất lỏng bằng vàng ròng rót vào tim bạn, chuyển hóa khổ đau của bạn thành an lạc.

Ðấy là phương pháp kỳ diệu mà thầy tôi thường dạy, nó đem lại cho tôi cảm hứng và sự giúp đỡ lớn lao vào những lúc tôi cần giúp đỡ.

4- Giúp đỡ người chết

Khi bạn làm thực tập này nhiều lần, đọc thần chú và làm cho tâm bạn tràn ngập hỷ lạc, thì dần dần sự khổ đau của bạn sẽ tan hòa vào trong niềm an tịnh của tự tánh tâm bạn. Bạn sẽ vui mừng nhận ra rằng, chư Phật vốn không ngoài tâm bạn, mà luôn luôn ở với bạn, bất ly tự tánh bạn. Và những gì Phật làm qua sự ban phước của ngài, là gia trì năng lực cho bạn, nuôi dưỡng bạn bằng niềm tin đối với Phật tánh ở bên trong.

Bây giờ, với tất cả năng lực tin tưởng mà pháp này đã đem lại cho bạn, bạn hãy tưởng tượng mình đang gởi phúc lạc ấy, ánh sáng từ bi của chư Phật ấy đến những người thân yêu đã chết. Ðiều này đặc biệt quan yếu trong trường hợp một người gặp cái chết thảm khốc, vì nó giúp chuyển hóa nỗi đau đớn của họ, đem lại cho họ bình anphúc lạc. Trong quá khứ, có lẽ bạn đã cảm thấy tuyệt vọng, vô phương giúp đỡ những người thân, nhưng bây giờ, qua pháp tu tập này, bạn có thể cảm thấy được an ủi, khuyến khích và có thêm năng lực để giúp người đã chết.
 
 

Mở rộng cõi lòng

Ðừng mong có hiệu quả tức thì, hay một phép lạ nào đó. Có thể chỉ sau một thời gian, hay lâu hơn nhiều, trong lúc không ngờ, sự đau khổ của bạn sẽ chuyển hướng. Ðừng mong đợi chấm dứt đau khổ một lần dứt khoát. Hãy mở rộng lòng đối với nỗi đau buồn, như bạn mở lòng ra đối với chư Phật và các bậc giác ngộ trong lúc thiền quán.

Bạn có thể cảm thấy biết ơn nỗi đau khổ, vì nó cho bạn cơ hội làm việc thẳng với nó và chuyển hóa nó. Nếu khôngđau khổ thì bạn đâu bao giờ khám phá ra rằng tận đáy sâu của khổ đau còn có một kho tàng phúc lạc. Thời gian mà bạn đau khổ có thể là thời gian bạn cởi mở nhất, và chỗ mà bạn cực kỳ thương tổn có thể là nơi ẩn tàng sức mạnh lớn nhất của bạn.

Vậy bạn hãy tự nhủ lòng : “Tôi sẽ không chạy trốn khổ đau. Tôi muốn xử dụng nó bằng cách tốt nhất, phong phú nhất, để tôi có thể thương yêu người khác và trở nên hữu ích cho họ”. Chung quy, chính khổ đau dạy cho ta lòng từ mẫn. Khi bạn đau khổ, bạn mới biết người khác đau khổ như thế nào. Và nếu bạn có thể giúp người khác, thì chính nhờ kinh nghiệm khổ đau của bạn mà bạn có thể có sự cảm thôngtâm từ bi để làm việc ấy.

Bởi thế dù có làm gì, bạn cũng nhớ đừng dập tắt nỗi đau khổ của bạn ; hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nỗi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn giấu sau nỗi đau buồn. “Ðau buồn có thể là khu vườn bi mẫn”, Rumi viết. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bitrí tuệ.

Và có lẽ chúng ta đều biết rõ rằng, ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau. Rilke viết rằng : “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương” .
 
 

Chấm dứt đau buồn và rút bài học từ nỗi buồn đau

Khi bạn tràn ngập khổ đau, thì hãy cố vươn lên bằng một trong những phương pháp thiền tôi đã đề cập trong chương 5 “Ðưa tâm về nhà” . Một trong những phương pháp tôi thấy rất hiệu lực để làm lắng dịu, tiêu tan nỗi sầu là đi vào thiên nhiên, nhất là đứng nhìn một dòng thác đổ, để cho nước mắt bạn, nỗi đau khổ của bạn trào tuôn và tịnh hóa bạn, như dòng nước chảy kia. Hoặc bạn có thể đọc một bản kinh cảm động nói về vô thường, và để cho trí tuệ nói trong kinh xoa dịu lòng bạn.

Chấp nhận đau thương để chấm dứt nó là chuyện có thể làm. Một cách mà nhiều người thấy hiệu nghiệmphương pháp tôi đã nói về sự “hoàn tất công việc dang dở”, thay đổi đôi chút. Dù người thân của bạn chết từ bao lâu, bạn cũng sẽ thấy pháp này rất hiệu nghiệm.

Quán tưởng chư Phật, Bồ-tát đứng ở trên bầu trời trên đầu và xung quanh bạn, đang chiếu xuống những tia sáng từ bi, ban ân sủng cho bạn. Trước sự hiện diện ấy, hãy nói những gì bạn cần nói, những gì thực sự ở trong tim bạn, với người thân đã chết.

Quán tưởng người ấy đang nhìn bạn với niềm cảm thôngtình thương mến nhiều hơn bao giờ cả trong đời họ. Hãy biết rằng người chết muốn cho bạn hiểu rằng họ yêu mến bạn và tha thứ cho bạn những gì bạn đã làm, và họ cũng muốn xin bạn tha thứ cho họ.

Hãy để cho tim bạn tuôn ra thành lời bao nhiêu nỗi giận hờn, thương tổn, mà có thể bạn đã ấp ủ bấy lâu, rồi buông xả hoàn toàn. Bằng tất cả tâm trí bạn, hãy để cho sự tha thứ của bạn hướng về người chết. Nói với họ, bạn đã tha thứ, nói với họ bạn đã hối hận như thế nào về tất cả nỗi đau khổ có thể bạn đã gây ra.

Bây giờ, hãy để cho sự tha thứ và tình yêu thương của họ tràn ngập bản thể bạn. Hãy biết tận đáy lòng bạn rằng bạn đáng được yêu thương, đáng được tha thứ, và hãy cảm thấy nỗi đau buồn của bạn đang tan biến.

Cuối cùng, hãy tự hỏi bây giờ bạn có thể thực sự nói lời từ biệt và buông xả người ấy hay chưa. Rồi tưởng tượng người ấy quay lưng bỏ đi, và kết thúc bằng pháp Chuyển di hay bất cứ pháp nào để giúp đỡ người đã chết.

Pháp này sẽ cho bạn cơ hội chứng tỏ tình yêu của bạn một lần nữa, làm một cái gì thêm nữa để giúp người đã chết, và chữa lành, hoàn tất mối tương giao trong tâm bạn.
 
 

*
 
 

Bạn có thể học được rất nhiều từ nỗi đau thương mất mát, nếu bạn mở lòng ra. Sự đau thương có thể bắt buộc bạn phải nhìn thẳng vào cuộc đời bạn, tìm một ý nghĩa trong đó mà lâu nay bạn chưa thấy. Khi đột nhiên bạn cảm thấy bơ vơ vì cái chết của người thân, thì bạn như sống lại một cuộc đời mới và tự hỏi : “Ta sẽ làm gì với cuộc đời này ? Tại sao ta còn mong tiếp tục sống ?” .

Sự mất mát thương đau còn có thể nhắc cho bạn một cách mãnh liệt cái gì có thể xảy ra nếu trong khi sống bạn không chịu bày tỏ tình thương mến của bạn, sự tán thưởng của bạn, hay sự xin lỗi, và bởi thế có thể làm cho bạn nhạy cảm hơn đối với những người thân còn sống. Elisabeth Kubler-Ross nói : “Ðiều tôi muốn nhắn nhủ mọi người là, hãy sống thế nào để bạn có thể nói những lời ấy trong lúc người kia còn có thể nghe được”. Và Raymond Moody, sau công trình một đời nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, đã viết : “Tôi bắt đầu nhận ra rằng : tất cả chúng ta thường ngày như thế nào thì khi gần chết, cũng như thế ấy. Hơn bao giờ hết, bây giờ tôi rất thận trọng để làm cho mọi người tôi yêu mến biết rõ cảm xúc của tôi” .

Bởi thế, lời khuyên tâm huyết của tôi cho những người đang ở trong cơn đau đớn sâu xa về nỗi mất mát người thân của họ, là hãy cầu nguyện chư Phật để được giúp đỡ, được ân sủngsức mạnh. Cầu nguyện cho bạn sống để tìm ra ý nghĩa phong phú nhất cho đời sống mới của bạn, sau khi họ mất đi. Hãy nhạy bén đối với nỗi đau lòng, hãy can đảmkiên nhẫn. Trên tất cả, hãy nhìn vào cuộc đời bạn để tìm cách san sẻ niềm thương yêu của bạn một cách sâu xa hơn, đối với những người khác ngay bây giờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10317)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11176)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 11006)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11235)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11301)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14304)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12512)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26394)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11741)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29312)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11687)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10807)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11125)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10993)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10811)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11351)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10804)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12278)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11316)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10094)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11422)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13443)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11299)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11508)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12726)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13815)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13228)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12846)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12195)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30190)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38201)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24954)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10992)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11774)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10701)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11249)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11573)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12942)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12144)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11361)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10252)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11832)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11231)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10930)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13105)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10218)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10903)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10967)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14562)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10716)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 22014)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12101)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11465)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30224)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19629)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20614)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12599)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12588)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21229)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13286)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14501)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30476)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28060)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28408)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 21003)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28732)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27275)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22010)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21525)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26275)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21680)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23467)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26435)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23276)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19882)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22991)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21203)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20024)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15452)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39310)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25714)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14153)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26131)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22533)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29192)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22599)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22935)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13230)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23221)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13211)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 29018)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30557)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14284)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26297)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33286)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35621)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8679)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13360)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30695)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22177)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant