Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07 Bardo và những thực tại khác

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11761)
07 Bardo và những thực tại khác


Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự hoàn tất một trạng huống và sự bắt đầu một trạng huống khác. Bar nghĩa là “ở giữa”, và do có nghĩa “bị lơ lửng,” “bị ném vào.” Bardo là một danh từ trở thành nổi tiếng do sự nổi tiếng của cuốn Tử thư Tây Tạng. Từ khi bản dịch tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đã khơi dậy một sự chú ý lớn lao trong số những nhà tâm lý học, văn sĩ, triết họcTây phương, và đã bán ra hàng triệu bản.

Nhan đề Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề sai lạc như thế) Tử thư Ai cập. Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa “Sự Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.” Giáo lý về cõi trung gian rất xưa cũ và được tìm thấy trong Dzogchen Tantras (Mật điển phái Dzogchen). Giáo lý này có một truyền thừa vượt ngoài những đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo), tiêu biểu tính thuần tịnh nguyêntuyệt đối giống như bầu trời của bản tâm ta. Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ giáo lý rộng lớn được truyền từ bậc đạo sư Padmasambhava và được hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.

“Sự giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian, Bardo Todrol”, là một quyển sách độc đáo về tri kiến. Nó là một loại sách dẫn, một sách chỉ lộ trình những trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay bạn đạo đọc cho một người sắp chết và sau khi chết. Ở Tây Tạng người ta tin rằng có “Năm Phương Pháp để đạt Giác Ngộ mà không cần Thiền”: Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ hình mật tôngthần chú đã được làm phép đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được chú nguyện bởi những bậc thầy trong thời gian tu nhập thất; nhờ nhớ lại sự chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài giáo lý sâu xa, như “Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.”

Quyển sách này, Tử thư Tây Tạng, được dành cho một hành giả hay người đã quen thuộc với giáo lý trong đó. Đối với một độc giả tân tiến, thì thật vô cùng khó để thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều nghi vấn không thể trả lời nếu không có vài hiểu biết về truyền thống đã phát sinh ra Tử thư ấy. Nhất là vì quyển sách này không thể được sử dụng và hiểu thấu đáo nếu không biết được những chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho môn đệ làm chìa khóa để thực hành.

Trong tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy – mà Tây phương đã quen thuộc qua quyển Tử thư Tây Tạng – trong một bối cảnh rộng lớn hơn và dễ hiểu hơn nhiều.
 
 

BARDO HAY CÕI BARDO
 
 

tính cách phổ thông của cuốn Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong ngôn từ thường ngày ở Tây Tạng, được dùng để chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh, nhưng nó có một ý nghĩa rộng lớn sâu xa hơn nhiều. Chính trong giáo lý này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy tri kiến của đức Phật về sống chết thực sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nhìn và hiểu rõ từ nhãn quan của giác ngộ.

Chúng ta có thể chia toàn thể hiện hữu ta thành bốn thực tại: Sống, hấp hối và chết, sau khi chết, và tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:

Bardo tự nhiên của đời này.

· Bardo đau đớn của sự chết.

· Bardo quang minh của pháp tánh.

· Bardo nghiệp của sự trở thành hay tái sinh.

1. Bardo tự nhiên của đời này trải dài suốt thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong tình trạng hiểu biết của ta hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái gì to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rõ rằng, so với chiều dài vô tận của lịch sử nghiệp của ta, thì thời gian ta sống trong đời này thực tương đối ngắn. Giáo lý nhấn mạnh với ta rằng, bạt đô đời này là thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với giáo lý này và ổn định sự tu tập.

2. Bardo đau đớn khi chết kéo dài từ khi hấp hối cho đến khi chấm dứt cái được biết là “hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của tự tính tâm, cái ta gọi là “Ánh sáng căn bản” vào lúc chết.

3. Bardo quang minh của pháp giớikinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của tự tính tâm, quang sắc hay “Linh quang,” xuất hiện dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.

4. Bardo nghiệp của hiện hữu hay trở thành, là cái mà ta thường gọi là cõi Bardo hay trung gian kéo dài cho tới khi ta tái sinh.

Điều phân biệt, định ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính tỉnh thức hiện diện một cách rõ rệt. Những cơ hội để giải thoát đang xảy ra liên tục suốt cuộc sống chết, và giáo lý Bardo là chìa khóa, là khí cụ giúp ta khám phánhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.
 
 

BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI
 
 

Một trong những đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn trung gian) là, đấy là những thời kỳ vô cùng bất định. Cuộc đời này là một ví dụ rõ nhất. Thế giới quanh ta càng ngày càng quay cuồng, nên cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. Vì bị mất liên lạc, không tiếp xúc được với chính mình, chúng ta thường lo âu, bất an, và gần như bị chứng thần kinh loạn. Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái bong bóng của những kế hoạch ta dự tính. Một phút giây kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong thế giới ngày nay là sống trong một cảnh rõ ràng là cõi Bardo, bạn không cần phải chết mới kinh quá một cõi như thế.

Tính cách bất định này, mà hiện tại đang thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mãnh liệt hơn, rõ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính sáng suốt hay mê mờ của chúng ta, theo lời những bậc thầy, “được nhân lên bảy lần.”

Bất cứ ai nhìn cuộc đời một cách trung thực, cũng sẽ thấy rằng chúng ta đang sống trong một tình trạng miên viễn của hồi hộpbất định. Tâm thức ta luôn luôn di chuyển từ trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra sáng suốt. Nếu mê mờ luôn, thì ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của cuộc đời này là đôi khi, nhìn chung thì ta ngu thực, song ta cũng có thể sáng suốt đột xuất! Điều này chứng tỏ cho ta thấy Bardo là gì: Một sự chập chờn giữa sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và tuệ giác, chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta hiện tại, tuệ giác và mê mờ khởi lên cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn đối diện với một tình trạng chọn lựa giữa hai trường hợp, và mọi sự tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn trường hợp nào.

Tính bất trắc miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như vô vọng, nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự bản chất nó đã tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội, dịp may để chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.

cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên toàn thể tâm thức ta. Tuy nhiên, bình thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, vì tâm ta đi từ một tình huống “chắc ăn” này tới một tình huống chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra. Kỳ thực, như giáo lý có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong kinh nghiệm của chúng ta là một Bardo, vì mỗi ý tưởng, mỗi cảm xúc sinh khởi từ tự tính tâm và chìm trở vào trong tự tính ấy. Giáo lý cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp đặc biệt quan trọng, mà tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của chúng ta mới có cơ hội xuất hiện.

Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đã bị phá tung, cánh cửa lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đã bị kẻ cướp viếng nhà. Bạn đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn sở hữu đều đã biến mất. Trong một lúc, bạn điếng người vì cú sốc, và đầy tuyệt vọng bạn quay cuồng trải qua một tiến trình tâm thức cố làm sao tạo lại những gì đã mất. Tai nạn đã tới: Bạn đã mất hết mọi thứ. Tâm thức đầy bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những ý tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một kinh nghiệm hạnh phúc. Không còn phải phấn đấu, không cần gì nỗ lực nữa, vì cả hai chuyện đều vô vọng. Bạn chỉ có buông bỏ, vì không có chọn lựa nào khác.

Thế là một phút trước, bạn mất một cái gì quý báu, và ngay sau đó, bạn cảm thấy tâm bạn đang ở trong một trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại kinh nghiệm ấy xảy đến, thì đừng vội bủa đi tìm một giải pháp ngay. Hãy ở lại một lúc trong trạng thái an tĩnh đó. Hãy cứ để nó là một khoảng hở. Và nếu bạn thực sự an trú trong khoảng trống ấy, nhìn vào tâm bạn, bạn sẽ thoáng thấy được bản chất bất tử của tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ sâu xatỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến tuệ giác căn để), thì nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mãnh liệt hơn, và không được kiểm soát, vào lúc ta chết.

Điều này tối quan trọng, vì giáo lý về Bardo cho ta biết có những lúc mà tâm thức tự do hơn bình thường rất nhiều, những thời điểm mãnh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. Vì lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát.

Dù ta có làm chủ được tâm một cách thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết – sự phóng thích xác thân vật lý – ta có được cái cơ hội kỳ diệu nhất để hoàn tất những gì ta đã nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta. Ngay cả một bậc thầy tối thượng đã đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, thì sự giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana, đại niết bàn. Đấy là lý doTây Tạng, chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt giác ngộ tối hậu.

Lúc tôi còn bé ở Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đã nghe nhiều chuyện kể về các bậc hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những cư sĩ tu yoga có vẻ bình thường, đã chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự thực chứng nơi họ, và năng lực của nền giáo lý mà họ đã thể hiện.

Giáo lý Dzogchen cổ xưa - từ đó phát sinh Tử thư Tây Tạng – có nói về một giống chim thần thoại, chim Garuda (kim sí điểu), mới sinh ra đã đủ lông cánh. Hình ảnh ấy tượng trưng cho bản tính sơ nguyên của ta, đã hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đã phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra. Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ hiển lộ một cách sáng chói.

Lý do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là vì chính lúc đó bản chất căn để của tâm, Ánh sáng Căn bản hay Linh Quang, sẽ tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và tráng lệ huy hoàng. Theo giáo lý Bardo, nếu vào lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng Căn bản, thì ta sẽ đạt giải thoát.

Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự quen thuộc với bản chất của tâm trong đời sống, qua sự thực hành thiền định. Và đấy là lý do tại sao một người giải thoát vào lúc chết được xem là giải thoát trong đời này, chứ không phải trong trạng thái trung gian sau khi chết. Vì chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh Linh Quang đã xảy và được an trú. Đây là điểm tối quan trọng cần thiết.
 
 

NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
 
 

Tôi đã nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái gì thực sự ở trong những bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng đều là những trạng thái khác nhau, những thực tại khác của tâm.

Trong sự thực hành Phật giáo, qua thiền định, chúng ta chuẩn bị để khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo đi vào những mức độ khác nhau của ý thức. Có một tương quan chính xác và rõ rệt giữa những trạng thái trung gian và những tầng lớp tâm thức mà ta kinh nghiệm qua chu kỳ sống chết. Bởi thế khi ta di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, thì có một thay đổi tương đương trong tâm thức; và nhờ thực tập thiền, chúng ta có thể làm quen, thân thiết với nó, và cuối cùng có thể hoàn toàn hiểu rõ nó.

Vì cái tiến trình diễn ra trong cõi trung gian sau khi chết đã nằm sẵn trong những tầng sâu của tâm thức chúng ta, nên nó cũng thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rõ rệt giữa những mức độ tinh tế của tâm thứcchúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo liên hệ tới cái chết:

· Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó tứ đại và tiến trình tư duy tan rã, mở vào kinh nghiệm Ánh sáng căn bản.

· Chiêm bao là giống như Bardo tái sinh, trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ý sanh thân” (thân bằng tư tưởng) rất hoạt độngsáng suốt, trải qua đủ thứ kinh nghiệm. Trong trạng thái mộng mị, chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó chúng ta trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống trong mộng.

· Khoảng giữa Bardo chết và Bardo tái sinh, có một trạng thái rất đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng căn bản, được gọi là “Bardo pháp tánh.” Đấy là một kinh nghiệm xảy đến với tất cả mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ý đến nó, huống hồ kinh nghiệm nó một cách toàn vẹn, vì nó chỉ được nhận chân bởi một hành giả đã tu tập. Bardo pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu chiêm bao.

Dĩ nhiên những giai đoạn tâm mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mãnh liệt hơn nhiều so với trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường sử dụng sự so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để duy trì sự tỉnh giác suốt trong những trạng thái Bardo. Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay ý thức được cái lúc những giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được ngay khi mộng, rằng mình đang nằm mộng? Vậy, hãy tưởng tượng duy trì được sự tỉnh giác trong giây phút kinh hoàng của những giai đoạn trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.

Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những trạng thái chết và tái sinh; ví dụ, cái cách bạn phản ứng đối với chiêm bao, ác mộng, và những khó khăn hiện tại, chứng tỏ bạn sẽ phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.

Đấy là lý do pháp yoga về ngủ và mộng đóng vai trò quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một hành giả thực thụ tìm cách làm là giữ cho sự tỉnh giác về tự tánh tâm luôn luôn liên tục không gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để trực nhậnquen thuộc với những gì sẽ xảy ra trong các giai đoạn bạt đô sau khi chết.

Bởi thế chúng ta tìm thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của thiền định. Thiền định là hành thiền ban ngày, còn yoga ngủ và mộng là thực hành về đêm. Trong truyền thốngTử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.
 
 

SỐNG CHẾT TRONG LÒNG BÀN TAY
 
 

Mỗi Bardo có một loạt chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những thực tại và tâm trạng đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những thực tập và huấn luyện tâm linh dành cho mỗi trạng thái Bardo có thể giúp chúng ta tận dụng những trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để giải thoát. Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự trực nhận được những trạng thái tâm ấy trong lúc ta còn sống. Chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.

Sự hoàn toàn làm chủ những chiều không gian khác nhau của tâm thức có thể khó hiểu đối với người tây phương, nhưng không phải là không thể đạt được.

Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đã thành tựu tâm linh, xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi còn trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông Tây Tạng, ở đấy ngài hấp thụ giáo lý từ một vài Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi. Kiến thức về Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy hăng hái dạy ngài với hy vọng ngài sẽ đem những giáo lý ấy về truyền báẤn Độ, nơi mà giáo lý Phật hầu như đã biến mất. Trong thời gian ngài ở Tây Tạng, Kunu Lama trở thành một bậc đa văn và có thực chứng.

Cuối cùng ngài cũng trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến hành hương xứ Ấn sau khi rời Tây Tạng, chúng tôi đi tìm kiếm ngài khắp nơi ở Benares. Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo. Không ai biết ngài là ai, lại còn không biết ngài là một người theo Phật giáo, đừng nói gì biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga thánh thiện dễ mến, và cúng dường ngài thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:

- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.

Khi những tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy văn phạmPhạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama sáng lập. Nhiều Lamas uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy tuyệt hảo về ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người tình cờ hỏi ngài về Phật pháp. Câu trả lời của ngài vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra. Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những giáo lý thuộc truyền thống riêng của họ.

Đức Dalai Lama lúc ấy đã nhận ngài làm vị hướng đạo tâm linh. Ngài công nhận Kunu Lama là nguồn cảm hứng cho ngài giảng dạy và thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển hình sống động của từ bi. Mặc dù ngài rất nổi tiếng, ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn vận những y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian phòng nhỏ. Khi ai đến cúng dường ngài một thứ gì, ngài liền đem làm quà cho người khác kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn, nếu không ai nấu, ngài nhịn.

Một hôm một bậc thầy mà tôi quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất uyên bác trong truyền thống Tử thư, và có kinh nghiệm về những sự hành trì liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đã ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama trả lời. Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài mô tả những trạng thái Bardo, thực quá sống động và khúc chiết đến nỗi ta có cảm tưởng ngài đang chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đã từng thực sự sống trong những trạng thái ấy.

Kunu Lama chỉ dẫn những Bardo bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một hành giả tầm cỡ như ngài thường du hành qua tất cả chiều không gian khác nhau của thực tại. Và vì những trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những thực hành thiền quán.

Những giáo lý ấy xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt sinh tử như nhìn vào lòng bàn tay.

Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể thực hành trong cõi trung giancuộc đời này, tập đi sâu vào tự tính tâm chúng ta, ta có thể khám phá tri kiến về những cõi trung gian hay Bardo khác. Sự thật của những giáo lý về cõi trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:

- Cách tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt giác ngộ ngay trong đời này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11705)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11197)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11927)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10241)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29234)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11952)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11936)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10948)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19617)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11356)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35300)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12859)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12205)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17335)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11470)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22098)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11818)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15916)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12121)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14099)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12603)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13216)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13649)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19986)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14409)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13535)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12340)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34721)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13402)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13723)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31963)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13206)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13066)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13422)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13304)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18044)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14925)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15724)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14865)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15845)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20769)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21296)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35117)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27523)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43917)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37885)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15135)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15060)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12965)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12637)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15608)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14957)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11405)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53169)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16517)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13160)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12606)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15578)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15490)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14754)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15601)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13029)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11760)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12289)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12574)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13474)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12462)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24970)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11964)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12735)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11612)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13731)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14096)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12900)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12724)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13004)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13908)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13608)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12441)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14430)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13285)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13753)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14624)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11853)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12723)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28281)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11780)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12640)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15054)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11996)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11759)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12852)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11968)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11517)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant