Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07 Bardo và những thực tại khác

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11762)
07 Bardo và những thực tại khác


Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự hoàn tất một trạng huống và sự bắt đầu một trạng huống khác. Bar nghĩa là “ở giữa”, và do có nghĩa “bị lơ lửng,” “bị ném vào.” Bardo là một danh từ trở thành nổi tiếng do sự nổi tiếng của cuốn Tử thư Tây Tạng. Từ khi bản dịch tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đã khơi dậy một sự chú ý lớn lao trong số những nhà tâm lý học, văn sĩ, triết họcTây phương, và đã bán ra hàng triệu bản.

Nhan đề Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề sai lạc như thế) Tử thư Ai cập. Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa “Sự Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.” Giáo lý về cõi trung gian rất xưa cũ và được tìm thấy trong Dzogchen Tantras (Mật điển phái Dzogchen). Giáo lý này có một truyền thừa vượt ngoài những đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo), tiêu biểu tính thuần tịnh nguyêntuyệt đối giống như bầu trời của bản tâm ta. Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ giáo lý rộng lớn được truyền từ bậc đạo sư Padmasambhava và được hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.

“Sự giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian, Bardo Todrol”, là một quyển sách độc đáo về tri kiến. Nó là một loại sách dẫn, một sách chỉ lộ trình những trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay bạn đạo đọc cho một người sắp chết và sau khi chết. Ở Tây Tạng người ta tin rằng có “Năm Phương Pháp để đạt Giác Ngộ mà không cần Thiền”: Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ hình mật tôngthần chú đã được làm phép đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được chú nguyện bởi những bậc thầy trong thời gian tu nhập thất; nhờ nhớ lại sự chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài giáo lý sâu xa, như “Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.”

Quyển sách này, Tử thư Tây Tạng, được dành cho một hành giả hay người đã quen thuộc với giáo lý trong đó. Đối với một độc giả tân tiến, thì thật vô cùng khó để thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều nghi vấn không thể trả lời nếu không có vài hiểu biết về truyền thống đã phát sinh ra Tử thư ấy. Nhất là vì quyển sách này không thể được sử dụng và hiểu thấu đáo nếu không biết được những chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho môn đệ làm chìa khóa để thực hành.

Trong tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy – mà Tây phương đã quen thuộc qua quyển Tử thư Tây Tạng – trong một bối cảnh rộng lớn hơn và dễ hiểu hơn nhiều.
 
 

BARDO HAY CÕI BARDO
 
 

tính cách phổ thông của cuốn Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong ngôn từ thường ngày ở Tây Tạng, được dùng để chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh, nhưng nó có một ý nghĩa rộng lớn sâu xa hơn nhiều. Chính trong giáo lý này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy tri kiến của đức Phật về sống chết thực sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nhìn và hiểu rõ từ nhãn quan của giác ngộ.

Chúng ta có thể chia toàn thể hiện hữu ta thành bốn thực tại: Sống, hấp hối và chết, sau khi chết, và tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:

Bardo tự nhiên của đời này.

· Bardo đau đớn của sự chết.

· Bardo quang minh của pháp tánh.

· Bardo nghiệp của sự trở thành hay tái sinh.

1. Bardo tự nhiên của đời này trải dài suốt thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong tình trạng hiểu biết của ta hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái gì to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rõ rằng, so với chiều dài vô tận của lịch sử nghiệp của ta, thì thời gian ta sống trong đời này thực tương đối ngắn. Giáo lý nhấn mạnh với ta rằng, bạt đô đời này là thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với giáo lý này và ổn định sự tu tập.

2. Bardo đau đớn khi chết kéo dài từ khi hấp hối cho đến khi chấm dứt cái được biết là “hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của tự tính tâm, cái ta gọi là “Ánh sáng căn bản” vào lúc chết.

3. Bardo quang minh của pháp giớikinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của tự tính tâm, quang sắc hay “Linh quang,” xuất hiện dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.

4. Bardo nghiệp của hiện hữu hay trở thành, là cái mà ta thường gọi là cõi Bardo hay trung gian kéo dài cho tới khi ta tái sinh.

Điều phân biệt, định ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính tỉnh thức hiện diện một cách rõ rệt. Những cơ hội để giải thoát đang xảy ra liên tục suốt cuộc sống chết, và giáo lý Bardo là chìa khóa, là khí cụ giúp ta khám phánhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.
 
 

BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI
 
 

Một trong những đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn trung gian) là, đấy là những thời kỳ vô cùng bất định. Cuộc đời này là một ví dụ rõ nhất. Thế giới quanh ta càng ngày càng quay cuồng, nên cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. Vì bị mất liên lạc, không tiếp xúc được với chính mình, chúng ta thường lo âu, bất an, và gần như bị chứng thần kinh loạn. Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái bong bóng của những kế hoạch ta dự tính. Một phút giây kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong thế giới ngày nay là sống trong một cảnh rõ ràng là cõi Bardo, bạn không cần phải chết mới kinh quá một cõi như thế.

Tính cách bất định này, mà hiện tại đang thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mãnh liệt hơn, rõ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính sáng suốt hay mê mờ của chúng ta, theo lời những bậc thầy, “được nhân lên bảy lần.”

Bất cứ ai nhìn cuộc đời một cách trung thực, cũng sẽ thấy rằng chúng ta đang sống trong một tình trạng miên viễn của hồi hộpbất định. Tâm thức ta luôn luôn di chuyển từ trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra sáng suốt. Nếu mê mờ luôn, thì ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của cuộc đời này là đôi khi, nhìn chung thì ta ngu thực, song ta cũng có thể sáng suốt đột xuất! Điều này chứng tỏ cho ta thấy Bardo là gì: Một sự chập chờn giữa sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và tuệ giác, chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta hiện tại, tuệ giác và mê mờ khởi lên cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn đối diện với một tình trạng chọn lựa giữa hai trường hợp, và mọi sự tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn trường hợp nào.

Tính bất trắc miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như vô vọng, nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự bản chất nó đã tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội, dịp may để chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.

cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên toàn thể tâm thức ta. Tuy nhiên, bình thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, vì tâm ta đi từ một tình huống “chắc ăn” này tới một tình huống chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra. Kỳ thực, như giáo lý có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong kinh nghiệm của chúng ta là một Bardo, vì mỗi ý tưởng, mỗi cảm xúc sinh khởi từ tự tính tâm và chìm trở vào trong tự tính ấy. Giáo lý cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp đặc biệt quan trọng, mà tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của chúng ta mới có cơ hội xuất hiện.

Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đã bị phá tung, cánh cửa lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đã bị kẻ cướp viếng nhà. Bạn đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn sở hữu đều đã biến mất. Trong một lúc, bạn điếng người vì cú sốc, và đầy tuyệt vọng bạn quay cuồng trải qua một tiến trình tâm thức cố làm sao tạo lại những gì đã mất. Tai nạn đã tới: Bạn đã mất hết mọi thứ. Tâm thức đầy bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những ý tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một kinh nghiệm hạnh phúc. Không còn phải phấn đấu, không cần gì nỗ lực nữa, vì cả hai chuyện đều vô vọng. Bạn chỉ có buông bỏ, vì không có chọn lựa nào khác.

Thế là một phút trước, bạn mất một cái gì quý báu, và ngay sau đó, bạn cảm thấy tâm bạn đang ở trong một trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại kinh nghiệm ấy xảy đến, thì đừng vội bủa đi tìm một giải pháp ngay. Hãy ở lại một lúc trong trạng thái an tĩnh đó. Hãy cứ để nó là một khoảng hở. Và nếu bạn thực sự an trú trong khoảng trống ấy, nhìn vào tâm bạn, bạn sẽ thoáng thấy được bản chất bất tử của tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ sâu xatỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến tuệ giác căn để), thì nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mãnh liệt hơn, và không được kiểm soát, vào lúc ta chết.

Điều này tối quan trọng, vì giáo lý về Bardo cho ta biết có những lúc mà tâm thức tự do hơn bình thường rất nhiều, những thời điểm mãnh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. Vì lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát.

Dù ta có làm chủ được tâm một cách thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết – sự phóng thích xác thân vật lý – ta có được cái cơ hội kỳ diệu nhất để hoàn tất những gì ta đã nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta. Ngay cả một bậc thầy tối thượng đã đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, thì sự giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana, đại niết bàn. Đấy là lý doTây Tạng, chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt giác ngộ tối hậu.

Lúc tôi còn bé ở Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đã nghe nhiều chuyện kể về các bậc hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những cư sĩ tu yoga có vẻ bình thường, đã chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự thực chứng nơi họ, và năng lực của nền giáo lý mà họ đã thể hiện.

Giáo lý Dzogchen cổ xưa - từ đó phát sinh Tử thư Tây Tạng – có nói về một giống chim thần thoại, chim Garuda (kim sí điểu), mới sinh ra đã đủ lông cánh. Hình ảnh ấy tượng trưng cho bản tính sơ nguyên của ta, đã hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đã phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra. Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ hiển lộ một cách sáng chói.

Lý do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là vì chính lúc đó bản chất căn để của tâm, Ánh sáng Căn bản hay Linh Quang, sẽ tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và tráng lệ huy hoàng. Theo giáo lý Bardo, nếu vào lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng Căn bản, thì ta sẽ đạt giải thoát.

Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự quen thuộc với bản chất của tâm trong đời sống, qua sự thực hành thiền định. Và đấy là lý do tại sao một người giải thoát vào lúc chết được xem là giải thoát trong đời này, chứ không phải trong trạng thái trung gian sau khi chết. Vì chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh Linh Quang đã xảy và được an trú. Đây là điểm tối quan trọng cần thiết.
 
 

NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
 
 

Tôi đã nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái gì thực sự ở trong những bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng đều là những trạng thái khác nhau, những thực tại khác của tâm.

Trong sự thực hành Phật giáo, qua thiền định, chúng ta chuẩn bị để khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo đi vào những mức độ khác nhau của ý thức. Có một tương quan chính xác và rõ rệt giữa những trạng thái trung gian và những tầng lớp tâm thức mà ta kinh nghiệm qua chu kỳ sống chết. Bởi thế khi ta di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, thì có một thay đổi tương đương trong tâm thức; và nhờ thực tập thiền, chúng ta có thể làm quen, thân thiết với nó, và cuối cùng có thể hoàn toàn hiểu rõ nó.

Vì cái tiến trình diễn ra trong cõi trung gian sau khi chết đã nằm sẵn trong những tầng sâu của tâm thức chúng ta, nên nó cũng thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rõ rệt giữa những mức độ tinh tế của tâm thứcchúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo liên hệ tới cái chết:

· Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó tứ đại và tiến trình tư duy tan rã, mở vào kinh nghiệm Ánh sáng căn bản.

· Chiêm bao là giống như Bardo tái sinh, trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ý sanh thân” (thân bằng tư tưởng) rất hoạt độngsáng suốt, trải qua đủ thứ kinh nghiệm. Trong trạng thái mộng mị, chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó chúng ta trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống trong mộng.

· Khoảng giữa Bardo chết và Bardo tái sinh, có một trạng thái rất đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng căn bản, được gọi là “Bardo pháp tánh.” Đấy là một kinh nghiệm xảy đến với tất cả mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ý đến nó, huống hồ kinh nghiệm nó một cách toàn vẹn, vì nó chỉ được nhận chân bởi một hành giả đã tu tập. Bardo pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu chiêm bao.

Dĩ nhiên những giai đoạn tâm mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mãnh liệt hơn nhiều so với trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường sử dụng sự so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để duy trì sự tỉnh giác suốt trong những trạng thái Bardo. Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay ý thức được cái lúc những giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được ngay khi mộng, rằng mình đang nằm mộng? Vậy, hãy tưởng tượng duy trì được sự tỉnh giác trong giây phút kinh hoàng của những giai đoạn trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.

Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những trạng thái chết và tái sinh; ví dụ, cái cách bạn phản ứng đối với chiêm bao, ác mộng, và những khó khăn hiện tại, chứng tỏ bạn sẽ phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.

Đấy là lý do pháp yoga về ngủ và mộng đóng vai trò quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một hành giả thực thụ tìm cách làm là giữ cho sự tỉnh giác về tự tánh tâm luôn luôn liên tục không gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để trực nhậnquen thuộc với những gì sẽ xảy ra trong các giai đoạn bạt đô sau khi chết.

Bởi thế chúng ta tìm thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của thiền định. Thiền định là hành thiền ban ngày, còn yoga ngủ và mộng là thực hành về đêm. Trong truyền thốngTử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.
 
 

SỐNG CHẾT TRONG LÒNG BÀN TAY
 
 

Mỗi Bardo có một loạt chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những thực tại và tâm trạng đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những thực tập và huấn luyện tâm linh dành cho mỗi trạng thái Bardo có thể giúp chúng ta tận dụng những trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để giải thoát. Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự trực nhận được những trạng thái tâm ấy trong lúc ta còn sống. Chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.

Sự hoàn toàn làm chủ những chiều không gian khác nhau của tâm thức có thể khó hiểu đối với người tây phương, nhưng không phải là không thể đạt được.

Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đã thành tựu tâm linh, xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi còn trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông Tây Tạng, ở đấy ngài hấp thụ giáo lý từ một vài Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi. Kiến thức về Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy hăng hái dạy ngài với hy vọng ngài sẽ đem những giáo lý ấy về truyền báẤn Độ, nơi mà giáo lý Phật hầu như đã biến mất. Trong thời gian ngài ở Tây Tạng, Kunu Lama trở thành một bậc đa văn và có thực chứng.

Cuối cùng ngài cũng trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến hành hương xứ Ấn sau khi rời Tây Tạng, chúng tôi đi tìm kiếm ngài khắp nơi ở Benares. Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo. Không ai biết ngài là ai, lại còn không biết ngài là một người theo Phật giáo, đừng nói gì biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga thánh thiện dễ mến, và cúng dường ngài thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:

- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.

Khi những tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy văn phạmPhạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama sáng lập. Nhiều Lamas uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy tuyệt hảo về ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người tình cờ hỏi ngài về Phật pháp. Câu trả lời của ngài vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra. Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những giáo lý thuộc truyền thống riêng của họ.

Đức Dalai Lama lúc ấy đã nhận ngài làm vị hướng đạo tâm linh. Ngài công nhận Kunu Lama là nguồn cảm hứng cho ngài giảng dạy và thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển hình sống động của từ bi. Mặc dù ngài rất nổi tiếng, ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn vận những y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian phòng nhỏ. Khi ai đến cúng dường ngài một thứ gì, ngài liền đem làm quà cho người khác kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn, nếu không ai nấu, ngài nhịn.

Một hôm một bậc thầy mà tôi quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất uyên bác trong truyền thống Tử thư, và có kinh nghiệm về những sự hành trì liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đã ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama trả lời. Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài mô tả những trạng thái Bardo, thực quá sống động và khúc chiết đến nỗi ta có cảm tưởng ngài đang chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đã từng thực sự sống trong những trạng thái ấy.

Kunu Lama chỉ dẫn những Bardo bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một hành giả tầm cỡ như ngài thường du hành qua tất cả chiều không gian khác nhau của thực tại. Và vì những trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những thực hành thiền quán.

Những giáo lý ấy xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt sinh tử như nhìn vào lòng bàn tay.

Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể thực hành trong cõi trung giancuộc đời này, tập đi sâu vào tự tính tâm chúng ta, ta có thể khám phá tri kiến về những cõi trung gian hay Bardo khác. Sự thật của những giáo lý về cõi trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:

- Cách tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt giác ngộ ngay trong đời này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39717)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15319)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13884)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14313)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14837)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13841)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37268)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12683)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11768)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22550)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12514)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12573)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13067)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13114)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33257)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14837)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12459)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51270)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12389)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30423)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13334)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30685)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19369)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11851)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13197)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13200)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30701)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31907)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29419)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11753)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11565)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9643)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9993)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35406)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10159)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10052)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27812)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15501)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13686)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9848)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9695)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18329)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9574)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8918)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31741)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12336)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13322)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8831)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9445)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11945)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9076)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29372)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33271)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32273)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27106)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8452)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant