Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07 Bardo và những thực tại khác

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11770)
07 Bardo và những thực tại khác


Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự hoàn tất một trạng huống và sự bắt đầu một trạng huống khác. Bar nghĩa là “ở giữa”, và do có nghĩa “bị lơ lửng,” “bị ném vào.” Bardo là một danh từ trở thành nổi tiếng do sự nổi tiếng của cuốn Tử thư Tây Tạng. Từ khi bản dịch tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đã khơi dậy một sự chú ý lớn lao trong số những nhà tâm lý học, văn sĩ, triết họcTây phương, và đã bán ra hàng triệu bản.

Nhan đề Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề sai lạc như thế) Tử thư Ai cập. Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa “Sự Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.” Giáo lý về cõi trung gian rất xưa cũ và được tìm thấy trong Dzogchen Tantras (Mật điển phái Dzogchen). Giáo lý này có một truyền thừa vượt ngoài những đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo), tiêu biểu tính thuần tịnh nguyêntuyệt đối giống như bầu trời của bản tâm ta. Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ giáo lý rộng lớn được truyền từ bậc đạo sư Padmasambhava và được hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.

“Sự giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian, Bardo Todrol”, là một quyển sách độc đáo về tri kiến. Nó là một loại sách dẫn, một sách chỉ lộ trình những trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay bạn đạo đọc cho một người sắp chết và sau khi chết. Ở Tây Tạng người ta tin rằng có “Năm Phương Pháp để đạt Giác Ngộ mà không cần Thiền”: Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ hình mật tôngthần chú đã được làm phép đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được chú nguyện bởi những bậc thầy trong thời gian tu nhập thất; nhờ nhớ lại sự chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài giáo lý sâu xa, như “Giải thoát lớn do Nghe trong cõi Trung gian.”

Quyển sách này, Tử thư Tây Tạng, được dành cho một hành giả hay người đã quen thuộc với giáo lý trong đó. Đối với một độc giả tân tiến, thì thật vô cùng khó để thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều nghi vấn không thể trả lời nếu không có vài hiểu biết về truyền thống đã phát sinh ra Tử thư ấy. Nhất là vì quyển sách này không thể được sử dụng và hiểu thấu đáo nếu không biết được những chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho môn đệ làm chìa khóa để thực hành.

Trong tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy – mà Tây phương đã quen thuộc qua quyển Tử thư Tây Tạng – trong một bối cảnh rộng lớn hơn và dễ hiểu hơn nhiều.
 
 

BARDO HAY CÕI BARDO
 
 

tính cách phổ thông của cuốn Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong ngôn từ thường ngày ở Tây Tạng, được dùng để chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh, nhưng nó có một ý nghĩa rộng lớn sâu xa hơn nhiều. Chính trong giáo lý này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy tri kiến của đức Phật về sống chết thực sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nhìn và hiểu rõ từ nhãn quan của giác ngộ.

Chúng ta có thể chia toàn thể hiện hữu ta thành bốn thực tại: Sống, hấp hối và chết, sau khi chết, và tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:

Bardo tự nhiên của đời này.

· Bardo đau đớn của sự chết.

· Bardo quang minh của pháp tánh.

· Bardo nghiệp của sự trở thành hay tái sinh.

1. Bardo tự nhiên của đời này trải dài suốt thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong tình trạng hiểu biết của ta hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái gì to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rõ rằng, so với chiều dài vô tận của lịch sử nghiệp của ta, thì thời gian ta sống trong đời này thực tương đối ngắn. Giáo lý nhấn mạnh với ta rằng, bạt đô đời này là thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với giáo lý này và ổn định sự tu tập.

2. Bardo đau đớn khi chết kéo dài từ khi hấp hối cho đến khi chấm dứt cái được biết là “hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của tự tính tâm, cái ta gọi là “Ánh sáng căn bản” vào lúc chết.

3. Bardo quang minh của pháp giớikinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của tự tính tâm, quang sắc hay “Linh quang,” xuất hiện dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.

4. Bardo nghiệp của hiện hữu hay trở thành, là cái mà ta thường gọi là cõi Bardo hay trung gian kéo dài cho tới khi ta tái sinh.

Điều phân biệt, định ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính tỉnh thức hiện diện một cách rõ rệt. Những cơ hội để giải thoát đang xảy ra liên tục suốt cuộc sống chết, và giáo lý Bardo là chìa khóa, là khí cụ giúp ta khám phánhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.
 
 

BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI
 
 

Một trong những đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn trung gian) là, đấy là những thời kỳ vô cùng bất định. Cuộc đời này là một ví dụ rõ nhất. Thế giới quanh ta càng ngày càng quay cuồng, nên cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. Vì bị mất liên lạc, không tiếp xúc được với chính mình, chúng ta thường lo âu, bất an, và gần như bị chứng thần kinh loạn. Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái bong bóng của những kế hoạch ta dự tính. Một phút giây kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong thế giới ngày nay là sống trong một cảnh rõ ràng là cõi Bardo, bạn không cần phải chết mới kinh quá một cõi như thế.

Tính cách bất định này, mà hiện tại đang thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mãnh liệt hơn, rõ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính sáng suốt hay mê mờ của chúng ta, theo lời những bậc thầy, “được nhân lên bảy lần.”

Bất cứ ai nhìn cuộc đời một cách trung thực, cũng sẽ thấy rằng chúng ta đang sống trong một tình trạng miên viễn của hồi hộpbất định. Tâm thức ta luôn luôn di chuyển từ trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra sáng suốt. Nếu mê mờ luôn, thì ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của cuộc đời này là đôi khi, nhìn chung thì ta ngu thực, song ta cũng có thể sáng suốt đột xuất! Điều này chứng tỏ cho ta thấy Bardo là gì: Một sự chập chờn giữa sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và tuệ giác, chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta hiện tại, tuệ giác và mê mờ khởi lên cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn đối diện với một tình trạng chọn lựa giữa hai trường hợp, và mọi sự tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn trường hợp nào.

Tính bất trắc miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như vô vọng, nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự bản chất nó đã tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội, dịp may để chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.

cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên toàn thể tâm thức ta. Tuy nhiên, bình thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, vì tâm ta đi từ một tình huống “chắc ăn” này tới một tình huống chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra. Kỳ thực, như giáo lý có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong kinh nghiệm của chúng ta là một Bardo, vì mỗi ý tưởng, mỗi cảm xúc sinh khởi từ tự tính tâm và chìm trở vào trong tự tính ấy. Giáo lý cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp đặc biệt quan trọng, mà tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của chúng ta mới có cơ hội xuất hiện.

Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đã bị phá tung, cánh cửa lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đã bị kẻ cướp viếng nhà. Bạn đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn sở hữu đều đã biến mất. Trong một lúc, bạn điếng người vì cú sốc, và đầy tuyệt vọng bạn quay cuồng trải qua một tiến trình tâm thức cố làm sao tạo lại những gì đã mất. Tai nạn đã tới: Bạn đã mất hết mọi thứ. Tâm thức đầy bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những ý tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một kinh nghiệm hạnh phúc. Không còn phải phấn đấu, không cần gì nỗ lực nữa, vì cả hai chuyện đều vô vọng. Bạn chỉ có buông bỏ, vì không có chọn lựa nào khác.

Thế là một phút trước, bạn mất một cái gì quý báu, và ngay sau đó, bạn cảm thấy tâm bạn đang ở trong một trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại kinh nghiệm ấy xảy đến, thì đừng vội bủa đi tìm một giải pháp ngay. Hãy ở lại một lúc trong trạng thái an tĩnh đó. Hãy cứ để nó là một khoảng hở. Và nếu bạn thực sự an trú trong khoảng trống ấy, nhìn vào tâm bạn, bạn sẽ thoáng thấy được bản chất bất tử của tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ sâu xatỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến tuệ giác căn để), thì nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mãnh liệt hơn, và không được kiểm soát, vào lúc ta chết.

Điều này tối quan trọng, vì giáo lý về Bardo cho ta biết có những lúc mà tâm thức tự do hơn bình thường rất nhiều, những thời điểm mãnh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. Vì lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát.

Dù ta có làm chủ được tâm một cách thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết – sự phóng thích xác thân vật lý – ta có được cái cơ hội kỳ diệu nhất để hoàn tất những gì ta đã nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta. Ngay cả một bậc thầy tối thượng đã đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, thì sự giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana, đại niết bàn. Đấy là lý doTây Tạng, chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt giác ngộ tối hậu.

Lúc tôi còn bé ở Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đã nghe nhiều chuyện kể về các bậc hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những cư sĩ tu yoga có vẻ bình thường, đã chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự thực chứng nơi họ, và năng lực của nền giáo lý mà họ đã thể hiện.

Giáo lý Dzogchen cổ xưa - từ đó phát sinh Tử thư Tây Tạng – có nói về một giống chim thần thoại, chim Garuda (kim sí điểu), mới sinh ra đã đủ lông cánh. Hình ảnh ấy tượng trưng cho bản tính sơ nguyên của ta, đã hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đã phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra. Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ hiển lộ một cách sáng chói.

Lý do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là vì chính lúc đó bản chất căn để của tâm, Ánh sáng Căn bản hay Linh Quang, sẽ tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và tráng lệ huy hoàng. Theo giáo lý Bardo, nếu vào lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng Căn bản, thì ta sẽ đạt giải thoát.

Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự quen thuộc với bản chất của tâm trong đời sống, qua sự thực hành thiền định. Và đấy là lý do tại sao một người giải thoát vào lúc chết được xem là giải thoát trong đời này, chứ không phải trong trạng thái trung gian sau khi chết. Vì chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh Linh Quang đã xảy và được an trú. Đây là điểm tối quan trọng cần thiết.
 
 

NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
 
 

Tôi đã nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái gì thực sự ở trong những bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng đều là những trạng thái khác nhau, những thực tại khác của tâm.

Trong sự thực hành Phật giáo, qua thiền định, chúng ta chuẩn bị để khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo đi vào những mức độ khác nhau của ý thức. Có một tương quan chính xác và rõ rệt giữa những trạng thái trung gian và những tầng lớp tâm thức mà ta kinh nghiệm qua chu kỳ sống chết. Bởi thế khi ta di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, thì có một thay đổi tương đương trong tâm thức; và nhờ thực tập thiền, chúng ta có thể làm quen, thân thiết với nó, và cuối cùng có thể hoàn toàn hiểu rõ nó.

Vì cái tiến trình diễn ra trong cõi trung gian sau khi chết đã nằm sẵn trong những tầng sâu của tâm thức chúng ta, nên nó cũng thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rõ rệt giữa những mức độ tinh tế của tâm thứcchúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo liên hệ tới cái chết:

· Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó tứ đại và tiến trình tư duy tan rã, mở vào kinh nghiệm Ánh sáng căn bản.

· Chiêm bao là giống như Bardo tái sinh, trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ý sanh thân” (thân bằng tư tưởng) rất hoạt độngsáng suốt, trải qua đủ thứ kinh nghiệm. Trong trạng thái mộng mị, chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó chúng ta trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống trong mộng.

· Khoảng giữa Bardo chết và Bardo tái sinh, có một trạng thái rất đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng căn bản, được gọi là “Bardo pháp tánh.” Đấy là một kinh nghiệm xảy đến với tất cả mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ý đến nó, huống hồ kinh nghiệm nó một cách toàn vẹn, vì nó chỉ được nhận chân bởi một hành giả đã tu tập. Bardo pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu chiêm bao.

Dĩ nhiên những giai đoạn tâm mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mãnh liệt hơn nhiều so với trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường sử dụng sự so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để duy trì sự tỉnh giác suốt trong những trạng thái Bardo. Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay ý thức được cái lúc những giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được ngay khi mộng, rằng mình đang nằm mộng? Vậy, hãy tưởng tượng duy trì được sự tỉnh giác trong giây phút kinh hoàng của những giai đoạn trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.

Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những trạng thái chết và tái sinh; ví dụ, cái cách bạn phản ứng đối với chiêm bao, ác mộng, và những khó khăn hiện tại, chứng tỏ bạn sẽ phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.

Đấy là lý do pháp yoga về ngủ và mộng đóng vai trò quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một hành giả thực thụ tìm cách làm là giữ cho sự tỉnh giác về tự tánh tâm luôn luôn liên tục không gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để trực nhậnquen thuộc với những gì sẽ xảy ra trong các giai đoạn bạt đô sau khi chết.

Bởi thế chúng ta tìm thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của thiền định. Thiền định là hành thiền ban ngày, còn yoga ngủ và mộng là thực hành về đêm. Trong truyền thốngTử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.
 
 

SỐNG CHẾT TRONG LÒNG BÀN TAY
 
 

Mỗi Bardo có một loạt chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những thực tại và tâm trạng đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những thực tập và huấn luyện tâm linh dành cho mỗi trạng thái Bardo có thể giúp chúng ta tận dụng những trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để giải thoát. Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự trực nhận được những trạng thái tâm ấy trong lúc ta còn sống. Chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.

Sự hoàn toàn làm chủ những chiều không gian khác nhau của tâm thức có thể khó hiểu đối với người tây phương, nhưng không phải là không thể đạt được.

Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đã thành tựu tâm linh, xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi còn trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông Tây Tạng, ở đấy ngài hấp thụ giáo lý từ một vài Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi. Kiến thức về Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy hăng hái dạy ngài với hy vọng ngài sẽ đem những giáo lý ấy về truyền báẤn Độ, nơi mà giáo lý Phật hầu như đã biến mất. Trong thời gian ngài ở Tây Tạng, Kunu Lama trở thành một bậc đa văn và có thực chứng.

Cuối cùng ngài cũng trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến hành hương xứ Ấn sau khi rời Tây Tạng, chúng tôi đi tìm kiếm ngài khắp nơi ở Benares. Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo. Không ai biết ngài là ai, lại còn không biết ngài là một người theo Phật giáo, đừng nói gì biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga thánh thiện dễ mến, và cúng dường ngài thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:

- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.

Khi những tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy văn phạmPhạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama sáng lập. Nhiều Lamas uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy tuyệt hảo về ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người tình cờ hỏi ngài về Phật pháp. Câu trả lời của ngài vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra. Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những giáo lý thuộc truyền thống riêng của họ.

Đức Dalai Lama lúc ấy đã nhận ngài làm vị hướng đạo tâm linh. Ngài công nhận Kunu Lama là nguồn cảm hứng cho ngài giảng dạy và thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển hình sống động của từ bi. Mặc dù ngài rất nổi tiếng, ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn vận những y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian phòng nhỏ. Khi ai đến cúng dường ngài một thứ gì, ngài liền đem làm quà cho người khác kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn, nếu không ai nấu, ngài nhịn.

Một hôm một bậc thầy mà tôi quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất uyên bác trong truyền thống Tử thư, và có kinh nghiệm về những sự hành trì liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đã ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama trả lời. Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài mô tả những trạng thái Bardo, thực quá sống động và khúc chiết đến nỗi ta có cảm tưởng ngài đang chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đã từng thực sự sống trong những trạng thái ấy.

Kunu Lama chỉ dẫn những Bardo bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một hành giả tầm cỡ như ngài thường du hành qua tất cả chiều không gian khác nhau của thực tại. Và vì những trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những thực hành thiền quán.

Những giáo lý ấy xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt sinh tử như nhìn vào lòng bàn tay.

Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể thực hành trong cõi trung giancuộc đời này, tập đi sâu vào tự tính tâm chúng ta, ta có thể khám phá tri kiến về những cõi trung gian hay Bardo khác. Sự thật của những giáo lý về cõi trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:

- Cách tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt giác ngộ ngay trong đời này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10400)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9674)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23594)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11834)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10728)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10066)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28675)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29397)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11381)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26312)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31010)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25318)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22793)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13042)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21923)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14130)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12428)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11236)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10687)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38049)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13663)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13449)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12336)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12581)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12049)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10717)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12789)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7387)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12610)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12034)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12863)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11937)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10690)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11355)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11647)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10855)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10785)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10364)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10476)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10700)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10624)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11904)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10687)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10797)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11376)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11088)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11621)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10510)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11249)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12294)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11157)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11416)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11498)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11289)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12994)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14163)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11002)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11859)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13153)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11571)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11408)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10926)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11274)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10808)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11053)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10874)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10240)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17102)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10995)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10861)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11383)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11073)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11373)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10349)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12759)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19238)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19672)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20309)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19737)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19019)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20443)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21065)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17913)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21794)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant