Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Đản lại về - nhớ chuyện xưa, nói chuyện nay

08 Tháng Tư 201915:15(Xem: 5746)
Phật Đản lại về - nhớ chuyện xưa, nói chuyện nay

Phật Đản lại về - nhớ chuyện xưa, nói chuyện nay

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

[ một ]

Đản Sinh – Sao không gọi là Giáng Sinh?

Hễ cứ rộn ràng không khí Phật Đản là khúc nhạc này cứ quyện mãi trong tôi: „Vui mừng gặp ngày nay, mồng tám tháng tư. Là khánh tiết Phật Thích Ca Ngài hiện về Ca Tỳ La Vệ trong đời khổ, vận đức từ bi. Dày công đức độ chúng tam thừa, vượt vòng vô minh phiền trược chân tâm tỏ bày. Chúng con một lòng xin quy y Phật Đà”.

Chắc sẽ có người hỏi: bài hát gì lạ?  Sao lại nói mồng tám tháng tư? Vâng, bài hát thật ngắn và hơi lạ, giờ này ít còn nghe hát nhưng thời tôi còn nhỏ thì cứ nghe lặp lại hoài trong mùa Phật Đản. Đàn chim Oanh Vũ chúng tôi không cần học cũng thuộc và thường múa theo khi hát. Phải công nhận rằng điệu nhạc du dương kiểu này thì ít thích hợp lúc hát sinh hoạt, nhưng để hát và múa theo thì tuyệt diệu. Bởi thế lúc đoàn chim Oanh Vũ lên sân khấu mà tay chân làm động tác theo thì thật dễ thương. Bài hát lại ngắn nên rất dễ thuộc. Bài hát này đã có từ thời rất xưa, do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị (thân phụ của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương) soạn lời theo điệu nhạc cung đình cổ có tên là Đăng Đàn Cungvào năm 1937 nhân dịp „Ban Đồng Ấu“ thành lập tại cố đô Huế để múa hát chào mừng đại lễ Phật Đản. Ban Đồng Ấu này đã được Đức Từ Cung – tức thân mẫu của Vua Bảo Đại – bảo trợ thành lập. Sau này, khi Giáo hội Phật Giáo quyết định đổi ngày Kỷ niệm Phật Đản Sanh vào ngày rằm tháng tư thì câu đầu bài hát cũng được đổi thành: „Vui mừng gặp ngày nay ngày vía Đản Sanh…“

Khi nhỏ chỉ biết vô tư múa hát. Điệu nhạc Đăng Đàn Cungnày cũng được soạn lời cho vài bài hát khác nhưng ít phổ biến hơn. Tôi còn nhớ bài khuyên học trò siêng học với câu đầu là : „ta càng học càng khôn càng tiến lên càng nhanh...“, hay có bài khuyến khích phong trào xóa nạn mù chữ mà tôi không nhớ hết. Đó là cách các cụ xưa dùng âm nhạc đưa những tư tưởng, tập quán mới vào giới bình dân ít học thời ấy.

Nói sa đà vào chuyện nhạc. Điều tôi muốn nói là, hồi nhỏ là vậy. Bây giờ nghe lại bỗng dưng thắc mắc: sao Phật Giáo mình nói „Khánh tiết Phật Thích Ca“. Sao lại nói Phật đản sanh, nói Phật đản mà không nói chữ giáng sinh, giáng thế, giáng trần v.v…

Thắc mắc thì phải tìm cho ra. Tôi lục từ điển thấy giải thích như sau.

Khánh Tiết là: Mừng, Lễ mừng; như quốc khánh: lễ lớn quốc gia (Tự điển Trần Văn Chánh); chứ không phải cái nghề mới khánh tiết là đứng làm cảnh cho đám cưới, đám tiệc mới có ở Việt Nam sau này.

Đản sinhnghĩa là: Ra đời, xuất sinh. Thường dùng cho bậc thánh nhân

Thì ra thế. Đức Phật ra đời, như một con người sinh ra. Vâng, Ngài là một con người. Nhưng Ngài lại không phải là một người thường. Một thánh nhân xuất hiện mang ý nghĩa xuất hiện trên đời của một bậc đạo sư để tìm phương thuốc cứu khổ cho muôn loài chúng sinh. Nhưng yếu tố chính, Ngài là một con người bằng xương bằng thịt – như mọi con người khác. Ngài ra đời, là một vị Thái tử con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia, được sinh ra dưới cây hoa Vô Ưu tại vườn hoa Lâm Tỳ Ni, nay là nước Nepal. Đó là lịch sử, là sự thật.

Như vậy, ngay cả với một Thánh nhân được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, là thầy của cả trời và người mà cũng đã sinh ra đời này như thế. Cuối đời cũng bệnh và chết như một con người. Huống chi những con người tầm thường như chúng ta hay cả các loài chúng sanh khác.

 

[ hai ]

Đâu phải chuyện Tôn Ngộ Không!

Ngày vui là thế mà lại đọc báo nghe những tin tức giật gân, rồi đột nhiên đâm ra lo lắng

Tháng 11 năm 2018 cả thế giới hoảng hốt lo ngại vì một nhà sinh vật và vật lý tên là He Jiankui (Hạ Kiến Khuê; sinh năm 1984) công bố tại một hội nghị khoa học và rộng rãi trên các phương tiện truyền thông một đoạn phim đăng tải việc sử dụng kỹ thuật chỉnh sửa gen CRISP-Case 9 thay đổi gen cho hai phôi thai người để có khả năng miễn nhiễm virus HIV. Ông He Jiankui lúc ấy đang giảng dạy và nghiên cứu ở Phân khoa Sinh Học (Biologie) thuộc Đại học Khoa học và Kỷ Thuật Nam Trung Quốc. Ngay lập tức sau đó, các nhà khoa học trên thế giới đã lên tiếng phản đối và gọi đây là "thử nghiệm nhân loại vô lại". Rồi bỗng dưng người ta không còn nghe gì đến nhà „khoa học trí tuệ“ này của cả. Có thể trước phẫn nộ của tất cả khoa học gia trên thế giới chính quyền Trung quốc đã ém nhẹm một công trình nghiên cứu phi nhân bản này. Rồi yên lặng như tờ không thấy tăm hơi gì thêm.

Vấn đề để ta suy ngẫm là, không lẽ chính quyền hay giới nghiên cứu cấp đại họcTrung quốc trước đây không hề biết gì về việc nghiên cứu điên rồ của ông He Jiankui chăng? Không, không thể nào như vậy được. Một công trình nghiên cứuđại học thường phải qua nhiều bước thực hiện các dự án khác nhau, kể cả việc xin các ngân khoản tài trợ. Còn nếu như thật sự không ai biết gì đến trước đó thì thật tội nghiệp, đáng thương cho ông He Jiankui, một con người trẻ tuổi thông minh lại rơi vào cái mà ta gọi là tà kiến. Nghĩ thương cho những kẻ khờ dại kia dám cả gan chơi trò "thay đấng hóa công" để rồi sinh sản những vật chẳng phải người mà cũng chẳng phải ngợm. 

Nhớ lại, trước đấy chưa đầy một năm, tháng 1/2018, cũng tại đại quốc ấy ông tiến sĩ Mu-ming Poo, giám đốc Học Viện Nghiên cứu Thần kinh học thuộc Chinese Academy of Sciences ở Thượng Hải công bố họ đã „sản xuất“ được hai chú khỉ sống, tức loài động vật nhiều đặc tính gần giống loài người. Wikipedia giải thíchtrong các bộ động vật thì khỉ thuộc vào Bộ Linh Trưởng (từ khoa học gọi là Primates) là một bộ thuộc giới động vật (Animalia), ngành động vật có dây sống (Chordata), phân ngành động vật có xương sống, lớp Thú (hay động vật có vú) (Mammalia).Loài người chúng ta cũng thuộc về bộ này. 

Do vậy, khi họ đã tạo ra được những chú khỉ thì họ cũng có thể có khả năng tạo ra những cái „thằng người“. Không biết sao tôi cứ lo cho cái yên lặng đầy khả nghi của mấy ông khoa học gia này quá. Mấy ổng không nói thì có thể vẫn đang âm thầm làm tiếp. Cả lúc nói không mà cũng cứ làm huống chi không nói! Chỉ có điều, mấy ông có thể có khả năng tạo ra những sinh vật trong phòng thí nghiệm được, nhưng chắc chắn chỉ là những hình sáp hay những ông phỗng đá biết đi, hoặc mấy lão bù nhìn đội mũ đứng đuổi chim ngoài ruộng. Khá hơn nữa thì tạo ra những sinh vật được nhào nặn theo một công thức có sẵn, việc làm vô cùng nguy hiểm tạo ra tai họa cho nhân loại. Những kết quả nắn ra được ấy không bao giờ có thể là những con người với đầy đủ nhân tính được.

Xưa có chuyện ông Tề Thiên Đại Thánh theo Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh mà ai cũng biết. Nhân vật Tôn Ngộ Không Tề Thiên Đại Thánh này cũng là một con khỉ. Khỉ này còn có tên là Thạch Hầu vì nó được sinh bởi một hòn đá ở biển Hoa Đông nứt ra. Nhưng Thạch Hầu đâu có thật. Thạch Hầu chỉ là nhân vật hư cấu dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân vào thế kỷ 16 thôi. Học Viện Thần Kinh Học của ông Mu-ming Poo này hãnh diện đặt tên cho hai chú khỉ mới chào đời „nhân tạo“ này là Zhong Zhong & Hua Hua (Trung Trung & Hoa Hoa). Lùi thêm lại ít bước nữa, trước đây 20 năm cũng có một cô cừu mang tên Dolly được cấy thành công tại Viện Roslin ở Edinburgh nước Tô Cách Lan đã gây ra không biết bao nhiêu tranh luận, vì cừu là một loài động vật có vú. Nhưng lần này, trường hợp hai chú khỉ Zhong Zhong & Hua Hua là trường hợp đáng lo ngại vì lần đầu tiên phòng thí nghiệm có thể (hay dám cả gan) tạo ra một động vật trong bộ động vật Linh Trưởng từ một tế bào gốc trưởng thành.

Hãnh diện khoa học hay hãnh diện dân tộc đây? Khỉ hay người?

Vậy, trước hiện tượng này Phật tử mình nghĩ sao đây? Nghĩ sao chuyện những sinh vật không cha không mẹ được chào đời trong các phòng thí nghiệm bởi những máy móc vô tri và những cái đầu vô … duyên (tôi tránh không dám dùng chữ vô lại như các phản ứng của những nhà khoa học Tây phương)? Từ câu chuyện Thạch Hầu cho đến các câu chuyện hôm nay, ta thử suy nghiệm về sự kiện, bởi duyên cớ gì mà một con người hay vật – một chúng sinh – có mặt trên cõi đời này. Không lẽ chỉ đơn giản xuất hiện khơi khơi, nói hello rồi good bye biến mất thôi ư? Đâu là nghiệp chướng, đâu là nhân duyên?

Đầu óc miên man cố đi tìm giải đáp cho mình, tai tôi nghe như có ai nhắc lại lời kinh của Pháp Hội trì tụng Đại Bảo Tích Kinh tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ năm 2018 vừa qua, mà cá nhân tôi đã duyên may được tham gia gần hai tuần lễ (trong ba tuần của Pháp Hội). Còn nhớ mãi đoạn kinh ngắn chiều hôm ấy, nó đã làm tôi giật mình. Tối về phòng trọ phải lật kinh chép ngay vào sổ tay. Đoạn đức Phật dạy ngài Bửu Tràng Đồng Tử:

 (Trước tiên quán trung ấm nơi cha mẹ sanh tâm tham ái). Do ái nhơn duyên nên tứ đại hoà hiệp hai giọt tinh huyết hiệp thành một giọt bằng hột đậu gọi là ca la laCa la la ấy có ba sự là mạng căn, thức và hơi nóng. Nghiệp duyên quả báo trong đời quá khứ không có tác giảthọ giả. Sơ tức xuất nhập gọi là vô minh ca la la. Lúc ấy hơi thở ra vào có hai đường đó là theo hơi thở lên xuống của bà mẹ cứ bảy ngày thì một lần biến đổi. Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng đây gọi là phong đạo. Chẳng thúi chẳng rã đây gọi là noãn nóng. Tâm ý trong ấy gọi là thức.

(Kinh Đại Bảo Tích, Quyển 9: Pháp Hội Hư Không Mục thứ năm mươi chín. Bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh)

Như thế, tôi hiểu ngay rằng. Khi một thai nhi được tượng hình thì cái cơ sở vật chất căn bản đầu tiên phải cần có là tinh cha huyết mẹ. Giống như khi ta làm cái bánh thì phải có phần bột, đường… Chưa đủ, thêm vào tinh cha huyết mẹ cần phải có một „Thức“ tham dự vào thì mới thành hình được. Lại cần thêm vào đó môi trường hơi ấm nuôi dưỡng một đời sống tương lai. Tất cả những quá trình hình thành ấy thường được gọi gọn bằng hai chữ nhân duyên. Hai từ này Phật tử chúng ta vẫn nói trong sinh hoạt thường nhật mà ít lưu tâm đến. Như khi hai người gặp nhau trong chùa, trò chuyện giây lát rồi khi chia tay nhau thường nói một câu đầy đạo vị„Chào nhé, anh/chị đi nhé, nếu còn nhân duyên thì còn gặp lại“.Câu nói tuyệt vời, đầy triết lý. Nghĩa là, dù họ muốn ngày mai hay ngày mốt gặp nhau nhưng nhân duyên chưa đủ thì đâu gặp được. Nhân duyên đã đủ rồi thì không hẹn cũng thấy nhau. Sao mà hay quá, có nhân ấy thì mới có duyên ấy. Đi xa hơn chút nữa, nhân duyên có thể ở ngay đời này mà cũng có thể ở cả những kiếp sau. Nhân duyên chính là căn bản cho cuộc vận hành của nghiệp lực bao đời trong suốt mười hai tiến trình. Mười hai tiến trình đó là: "Do vô minh, có hành sinh. Do hành, có thức sinh. Do thức, có danh sắc sinh. Do danh sắc, có lục nhập sinh. Do lục nhập, có xúc sinh. Do xúc, có ái sinh. Do ái, có thủ sinh. Do thủ, có hữu sinh. Do hữu, có sinh sinh. Do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khỗ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi". (Theo Tương Ưng Bộ Kinh, bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu).

Vậy, một em bé ra đời không thể chỉ đơn giản là kết hay hậu quả của hành vi dục tính từ hai con người nam nữ. Ứng dụng cho mọi loài chúng sinh. Lại càng không thể là do một thần linh, một tảng đá… hay cả một nhóm người nào đó tự ý tạo nên - dù bằng quyền phép hay máy móc y cụ trong phòng thí nghiệm. Từ nhận thức này giúp ta hiểu được các hiện tượng, tại sao có những bậc cha mẹ xuất thân là những nông dân nghèo, ít học mà lại có khi sinh ra những người con nhân tài trí tuệ. Ngược lại có những người khỏe mạnh, thông minh, học giỏi mà sinh ra những người con tật nguyền, ngu dại hay có khi bị điên khùng. Cũng có khi cũng chính từ cha mẹ ấy, cũng môi trường lớn lên ấy mà anh chị em có người thế này có kẻ thế kia. Loài người chúng ta bằng  những phương tiện khoa học có thể chế tạo hàng loạt những vật dụng giống nhau, như sản xuất hàng triệu cái máy SmartPhone, hàng vạn chiếc xe hơi, xây hàng ngàn ngôi building…  gần như 100% y hệt nhau, nhưng với sinh vật (chúng sinh) thì mỗi đơn vị là một cá thể riêng biệt, không ai giống ai. Bên những yếu tố vật chất còn có yếu tố khác như Thức, như tứ đại hòa hợp... Không thể nào lấy chúng sinh này đem clone ra chúng sinh khác được. 

Lấp biển vá trời có khi con làm được chứ chuyện này thì bất khả thi! 

 

[ ba ]

Đã ngắm hoa sao lại nỡ lòng nào đạp hoa đau.

Rồi thêm chuyện của hãng điện tử này nữa. Tờ tuần báo của Hiệp Hội Kỹ Sư Đức ngày 8/2/19 đưa tin là hãng điện tử Huawei (âm Hán Việt đọc là Hoa Vi) công bố sẽ dùng chương trình điện toán để máy Computer viết nốt 2 chương cuối của bản giao hưởng“Unvollendete – Dở Dang” của nhạc sĩ tài danh Franz Schubert. 

Phat Dan

Franz Schubert chỉ phác thảo mấy dòng nhạc cho chương ba của tác phẩm 200 năm trước đây

Nguồn: VDI Nachrichten(số 6 ra ngày 8.2.2019). 

 

Nhạc sĩ Franz Schubert gốc người Vương quốc Áo là một ngôi sao rạng ngời trong âm nhạc cổ điển Tây phương. Ông ra đời vào năm 1797 tại thành phố Wien và cũng mất tại đây vào năm 1828, lúc ông mới 31 tuổi. Tuy tuổi thọ ngắn ngủi như thế nhưng ông đã để lại cho đời 600 ca khúc các thể loại nhạc hợp xướng từ nhạc thánh ca đến sáng tác ngoài đời, 7 tác phẩm lớn và 5 tác phẩm còn „dở dang“. Đó là những bản nhạc Giao hưởng, nhạc Khởi đầu - Ouvertüren([1]), và rất nhiều tác phẩm trình diễn sân khấu, âm nhạc cho dương cầm và nhạc thính phòng.

Bản giao hưởng số 7 ([2])  Sinfonie h-Moll D 759 „Unvollendete“này viết vào năm 1822 chỉ có 2 chương (thay vì 4) nên được mang tên như vậy. Chính Schubert cũng đã khởi đầu viết vài dòng nhạc cho chương thứ ba (như hình phía trước) nhưng ông lại bỏ ngang và sáng tác tiếp bản giao hưởng số 8 Sinfonie C-Dur D 944 „Große Sinfonie C-Dur – Đại Giao Hưởng C-Dur “  vào năm 1825 (sau này in ra thì ghi là năm 1828). Rồi lại viết thêm bản giao hưởng Sinfonie-Entwurf D-Dur, D 936A (1828) chođến khi ông mất đi vào ba năm sau.Điều đó nói lên rằng, sau bản Giao hưởng số 7 Sinfonie h-Moll D 759 „Unvollendeteendete“này, Schubert còn có đủ thì giờsức lực trong 3 năm cuối đời để viết thêm 2 giao hưởng nữa, bên cạnh nhiều ca khúc khác. Tuy tác phẩm này mangtên Giao hưởng "Dở Dang" nhưng đây vẫn là một kiệt tác. Giao hưởng "Dở Dang" của Franz Schubert là một trong những tác phẩm được yêu thích nhất ở khắp mọi nơi trong các chương trình âm nhạc biểu diễn giao hưởng. 

Lịch sử văn học nghệ thuật cũng có ghi lại nhiều trường hợp tác giả có những tác phẩm cuối đời và không thể hoàn thành được vì bệnh hoạn hay mất đi. Nhưng ở đây, Sinfonie h-Moll D 759 „Unvollendeteendete“ không phải là tác phẩm cuối cùng của Schubert. Phải chăng việc để bỏ dở không viết tiếp hai chương còn lại cho bản số bảy này là ý muốn của danh tài âm nhạc Schubert? Mắc mớ gì mà hãng điện tử Huawei lại phải viết tiếp cho „chu toàn“. Khi tự ghép đuôi thằn lằn cho bản nhạc này Huawei muốn gì đây? Hay cũng là một kiểu lắp ráp, ghép thêm theo kiểu „đầu Ngô mình Sở“. Ai say mê âm nhạc cổ điển Tây phương mà không từng cảm nhận rằng, cũng những khung nhạc y như vậy, cũng bao nhiêu nhạc công ấy, chỉ cần một lần thay nhạc trưởng là đã âm nhạc sẽ nghe khác xa. Thậm chí có khi chỉ thay người đàn solo là đã khác. Hay giàn nhạc giao hưởng ấy dời sang biểu diễn ở sảnh đường khác là đã nghe ra khác. Ghép làm sao được đây? Franz Schubert từng trải qua một cuộc sống rất nghèo khổ, có khi phải „bán“ nhạc mình với giá rẻ mạt để sống, từng hết lòng yêu người mà chẳng được người yêu, vì nghèo quá. Chàng lại quá … yểu tử. Sau 31 năm lăn lộn trong cuộc đời giờ này nhạc sĩ đã nằm yên dưới lòng đất lạnh ở Nghĩa trang Trung ương thành Wien (Der Wiener Zentralfriedhof). Xin để nhạc sĩ tài danh của nhân loại ấy yên nghỉ dưới nấm mồ. Đừng đem lòng cuồng tín vào khoa học mà khuấy động ồn ào nữa. Thiệt hết chỗ bàn. Bó tay! 

Nói thế không phải tôi không ưa khoa học. Không, tôi thừa biết khoa học đã mang lại cho cuộc đời này nhiều bước tiến đáng kể. Khoa học đã tạo ra nhiều phương tiện hữu hiệu cải thiện nếp sinh hoạt của con người. Tôi lại đang làm việc tại một cơ sở có nhiều dự án nghiên cứu và cơ sở này cũng đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu y học đáng kể. Vì thế  tôi cũng liên quan trách nhiệm ít nhiều cho các công việc ấy – gián tiếp hay trực tiếp. Nhưng, giống như việc sử dụng một con dao bén tốt, một người đầu bếp dùng nó để cắt gọt nấu ra những món ăn ngon, còn tên sát nhân có thể dùng nó để hại người. Tựu chung cũng ở ba chữ: tham sân si!

Do vậy, lòng này cũng xin có ít lời tâm sự cùng quý ông quý bà của Hoa Vi (Huawei) chút. Khi đặt tên cho hãng mình vậy với cái Logo là một đóa hoa tám cánh màu đỏ, chắc mấy ông bà đã tự cảm nhận mình là hoa, hay ít nhất mình yêu quý hoa. Một đóa hoa đẹp không phải lúc nào mọi cánh hoa cũng phải trơn tru bằng phẳng, phải màu sắc giống hệt như nhau. Hoa đẹp vì mỗi đóa, mỗi cánh hoa có một vẻ cá biệt, một sắc màu riêng. Thiên nhiên là thế, thưa các ông các bà của hãng Hoa Vi (Huawei) kia ơi, xin nhớ lại giùm cho.

 

[ bốn ]

Trí tuệNiềm tin

Xin kể thêm câu chuyện vui này nữa.

Trong một chuyến xe lửa chạy về thủ đô Paris của Pháp. Toa xe nhỏ chỉ có hai người đàn ông, một già một trẻ. Chàng trẻ có dáng dấp như là một sinh viên còn người già thì có vẻ như một người trí thức. Họ ngồi yên lặng, thỉnh thoảng người này liếc mắt quan sát người kia. Khi xe vừa chuyển bánh, người lớn tuổi móc túi lấy ra một chiếc tràng hạt và miệng lâm râm cầu nguyện. Người trẻ tuổi chợt cất tiếng hỏi:

- Ồ thưa cụ, thời đại này mà cụ còn có thể tin vào những chuyện cầu nguyện mê tín lỗi thời này ư?

- Vâng! Tôi vẫn tin chứ. Còn cậu?

- Lúc còn nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ thì khoa học đã mở mắt cho tôi khám phá ra những chân trời mới. 

- Ồ thật vậy sao! Vậy cậu có thể cho tôi biết chân trời mới ấy là thế nào không? 

Người sinh viên nhanh nhảu trả lời:

- Xin cụ vui lòng cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi cho cụ một số tài liệu khoa học giải thích vấn đề này. Khi đọc xong tôi tin chắc cụ sẽ bỏ ngay những niềm tin vớ vẩn ấy. 

Cụ già lục bên trong túi áo khoác của mình lấy ra một danh thiếp trao cho người sinh viên trẻ. Lướt mắt nhanh qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng tái mặt đi rồi lặng lẽ dời chỗ sang toa khác. Trên tấm danh thiếp ấy, những dòng đầu ghi tên: Louis Pasteur, Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoa học Paris.  ([3])

Quay lại chuyện khỉ quá ư là khỉ một lần nữa. Phim truyện Tây Du Ký thường để ông khỉ Tôn Ngộ Không luôn đi đầu của đoàn thỉnh kinh vì ông được xem là biểu tượng của cái „trí“. Lúc buồn vui hay lúc khó khăn, hoạn nạn ông đều là người đi đầu và hiến kế. Nhưng cũng có nhiều phen hoạn nạn xảy đến là do cái khỉ của ông khỉ này gây ra, làm thầy trò Đường Tăng tưởng chừng sắp mất mạng. Cái trí này của Ngộ Không là cái trí thường tình, có khi mang tính chất khôn vặt.

Nhà Phật gọi cái trí đích thực, cái hiểu biết chân chính tột cùng là cái hiểu biết thấy mọi hiện tượng „như thật“. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong một bài viết trên nhà của anh đã gọi bằng mấy từ thật hay, là cái-biết-trước-cái-biết.Anh giải thích thêm, cái biết ấy chính là cái biết theo trí tuệ Bát Nhã (Prajna). Vì trong chữ Prajna, nghĩa của từ Pra là trước, Jna là trí thức. Đây chính là cái thấy biết hiện tiền, thấy tròn đầy sự vận hành của pháp, không có sự can thiệp của cái ta tích cóp, cái ta học tập, cái ta thành kiến, cái ta tham lam sân hận ngu si.

Những ngày đầu tháng hai 2019 này, bà Angelia Merkel đã đến thăm Nhật Bản. Nhân chuyến công du này, trong tư cách là một chính trị gia với vai trò Thủ Tướng nước Đức, đồng thời cũng là một nhà vật lý, bà đã phát biểu một câu nói để đời, được tờ tuần báo củaHiệp Hội Kỹ Sư Đức - VDI Nachrichtenđăng tải lại như sau: “ Wenn ich aber einen Chip in mein Gehirn bekomme, damit ich schneller denken oder besser denken kann – bin ich dann auch noch derselbe Mensch? Wo endet mein Menschensein - Khi bộ óc của tôi được cấy vào đó một linh kiện Chip (linh kiện điện tử) để có thể suy nghĩ nhanh hơn hay suy nghĩ tốt hơn - liệu tôi có còn là tôi nữa không? Nhân loại của tôi đi về đâu?“. Một câu tuyên bố tuyệt diệu của một lãnh đạo quốc gia mà cũng đồng thời là nhà khoa học, từng là chuyên viên vật lý của Học viện Vật lý và Hóa học ZIPC thời Đông Đức. Bà lại phát biểu ngay tại Nhật Bản, đất nước hàng đầu trong kỹ thuật điện tử. Tôi quá tâm đắc về những nhận định này của bà Thủ Tướng nước Đức. Lại hãnh diện là mình được sống trên một xứ sở mà lãnh đạo chính phủ biết chỗ nào là lằn mức của hiểm nguy để kịp thời đạp thắng dừng lại – trước khi chiếc xe lao vào vực thẳm

Lòng ôm ấp những băn khoăn cùng tư duy ấy, tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh

Xin cung kính chắp tay đón chào một bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

--

Đức Quốc, Phật Đản 2563 (Tây lịch 2019)



([1])Chữ Ouvertüren tiếng Đức lấy từ chữ gốc tiếng Pháp là ouverture nghĩa là Khai mạc. Đây là phần hòa tấu nhạc cụ, gọi là Khúc Nhạc Khởi Đầu cho các chương trình sân khấu lớn như các vở nhạc kịch (Oper), múa Ballet hay khiêu vũ.

([2])Việc đánh số thứ tự các bản Giao Hưởng này có khi khác nhau. Chúng tôi dựa theo tài liệu Wikipedia bản tiếng Đức.

([3])Thuật lại theo Wikipedia tiếng Việt. Các giai thoại về Louis Pasteur.

Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Tư 201922:40
Khách
Cảm ơn bạn. ... MÔ Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14054)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55112)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14445)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14205)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13886)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36322)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20290)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17640)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31535)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14684)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46176)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35939)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20193)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18370)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19844)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33417)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54522)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63655)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27444)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23035)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17923)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20938)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14474)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17479)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21983)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15106)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14368)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15398)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14992)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12699)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13351)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12516)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16241)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13202)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21652)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22731)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46190)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14739)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13841)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47502)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13658)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14577)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33319)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12531)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40394)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43422)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14420)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant