Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 4: Bardo; Lộ trình chuyển tiếp trọng yếu

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10450)
Chương 4: Bardo; Lộ trình chuyển tiếp trọng yếu

CHƯƠNG 4

BARDO

LỘ TRÌNH CHUYỂN TIẾP TRỌNG YẾU

Chẳng còn cấu trúc vật chất nào kiểm soát chúng ta.
Những thói quen tinh thần tiêu cực xuất hiện như thế giới của ảo tưởngsợ hãi.
Những thói quen tích cực của chúng ta xuất hiện như thế giới của an bìnhhoan hỷ.
Thế nên chúng ta phải nhớ phát triển và duy trì những phẩm tính tâm linh.

Bardo, với người bình thường, lộ trình chuyển tiếp bắt đầu khi ý thức trở lại. Nó chấm dứt vào lúc thụ thai của cuộc sống kế tiếp. Với những thiền giả mật tông đã kinh nghiệm, nó khởi đầu hay kết thúc với cái thấy quang minh hiện diện tự nhiên.

Trong lộ trình cận tử, tâm chúng ta kết hợp với thân. Giai đoạn kế, lộ trình của bản tánh tối thượng, thường ngắn khiến người bình thường hiếm người thấy nó. Do vậy, bardo, giai đoạn giữa kinh nghiệm của bản tánh tối thượng và sự tái sanh kế tiếp của chúng ta, là sự kiện chủ yếu sau khi chết – sự gặp gỡ trọng yếu nhất của cuộc sống chúng ta – và khoảng thời gian dài nhất giữa giai đoạn đầu tiên của ba giai đoạn chuyển tiếp.

Nói chung, lộ trình đi qua bardo kéo dài đến khoảng bảy tuần (bốn mươi chín ngày), nhưng cũng có thể ngắn hơn nhiều, hay trong một số trường hợp hiếm gặp có thể kéo dài lâu hơn. Trong phân nửa thời gian đầu tiên của lộ trình chuyển tiếp này, chúng ta có thể cảm thấy mình có một thân và cảm xúc của kiếp sống trước. Trong phân nửa thời gian còn lại, chúng ta có thể cảm thấy mình có thân và những kinh nghiệm của lần tái sanh sắp đến.

NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA BARDO

Trong bardo, phần lớn chúng ta cảm thấy mình đang di chuyển qua một con đường hay đường ống hẹp, đi ngang qua một sa mạc, qua những cây cầu trên con sông cuồng loạn, bị xét xử bởi Tử Thần, có thể bị hành hình và đẩy xuống địa ngục, hay những cõi cao hơn, hoặc cõi thiên. Tất cả những gặp gỡ này đều là phản ứng của tinh thần, văn hóa, vật chất, và những thói quen cảm xúcchúng ta đã nuôi dưỡng trong quá khứ.

Chúng ta có thể cảm thấy như thể bị chèn ép trong một đường hầm chật hẹp khi ý thức chúng ta còn hiện hữu trong thân sắp chết. Tại cuối đường hầm, chúng ta có thể thấy một cửa lớn hay cửa sổ có ánh sáng chiếu qua. Điều này có thể là lỗ mở đỉnh đầu hay bất kỳ lỗ nào trong chín lỗ mở ra của thân thể. Cho đến khi có thể nhổ bật những gốc rễ thói quen ăn sâu mà mình nuôi đưỡng và tìm thấy lối ra để hoàn toàn giải thoát, chúng ta sẽ đi vòng quanh trong một chu trình vô tận, giống như một con ong bị nhốt trong phòng.

Trong bardo, nhiều người kinh nghiệm những loại tương tự như hệ thống thế gian, vì họ gặt hái mọi kết quả của nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ. Nhưng trong một số trường hợp, kinh nghiệm sẽ là một nhận thức thuần chủ thể của người đã chết, không có sự tham gia thực tế nào của người khác, ngay cả dù người chết có thể cảm thấy nhiều người đang chia sẻ kinh nghiệm với họ. Chẳng hạn, như chúng ta sẽ thấy trong chương 5, vị delog Do Khyentse cảm thấy chị của Ngài và những người khác đi cùng Ngài đến cõi tịnh độ, nhưng trong thực tế bà vẫn còn sống và đang bận học hành tại Tu viện Yarlung.

Như ghi chú trước đây, nếu chúng ta là những thiền giả có nhận thức cao đã đạt giác ngộ trong cuộc sống hay trong lộ trình của bản tánh tối thượng, chúng ta không cần đi qua bardo.

Nếu tích tụ công đức rất lớn và đạt được một số kinh nghiệm thiền định, chúng ta sẽ đi qua bardo, nhưng chỉ có ít cảm giác sợ hãikinh nghiệm. Do năng lực của công đứcnhận thức của thiền định, chúng ta sẽ có thể thọ tái sanh vào một cõi tịnh độ xuất hiện tự nhiên, hoặc tối thiểu vào một trong những cõi hạnh phúc của thế gian.

Nếu dòng tâm thức đầy dẫy những dấu vết của hành động bất thiện, chúng ta sẽ không thể thấy bản tánh tối thượng và sẽ bị kinh hoàng bởi những âm thanh tự nhiên và cái thấy của ánh sáng, tia sáng, và hình ảnh. Chúng ta có thể thậm chí không dám nhìn vào những cái thấy đó, cũng như không thể hiểu được chúng là biểu hiện của thật tánh mình. mà sẽ đấu tranh với chúng như những đối tượng tinh thần trong dạng những thế lực xung đột. Những nhận thức tiêu cực như vậy của sự xung đột và đấu tranh có thể dẫn đến kinh nghiệm của một cõi địa ngục đó là cõi tái sanh của chúng ta.

Trong bardo, ý thức hoàn toàn tách rời thân. Tâm thức ta đã để lại phía sau thân tướng đã yêu quý như một xác chết lạnh giá, không thở, và bất động. Ý thức chúng ta sẽ trôi nổi vòng quanh mà không có bất cứ thân thể thô nào để neo lại. Chúng ta có thể thấy ánh sáng mặt trời hay mặt trăngvô ích. Chúng ta sẽ khoác vào một thân tâm thức, giống như phần lớn hình ảnh theo nghiệp thói quen quá khứ. Tuy nhiên, một số bản văn mô tả nó như một thân vi tế của ánh sáng dịu. Nhưng chúng ta vẫn nghĩ mình có thân lúc trước và vẫn còn sống.

Chúng ta có thể đi qua những kinh nghiệm sau: chúng ta sẽ không có cảm giác ổn định, về cảm nhận và môi trường chung quanh sẽ biến đổi liên tục tùy theo sự thay đổi trong tư duyảnh hưởng nghiệp lực của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy chính mình và bất kỳ người nào hay trong bất cứ nơi nào xảy đến trong tâm thức ta, trừ khi nơi đó vượt khỏi phạm vi nghiệp. Nếu nghĩ đến Thành phố New York, chúng ta sẽ ở đó ngay lập tức không tốn bất kỳ thời gian nào hoặc phải cố di chuyển đến đó, vì thân chúng ta là một thân tâm thức không phải thân vật chất.

Vấn đề không phải ở việc có thể di chuyển hay không mà là việc an định. Chúng ta khó trụ ở một nơi và không tập trung vào bất kỳ tư duy nào, vì chúng ta luôn di chuyển, trôi nổi, lung linh, và chạy khắp. Chúng ta luôn luôn chạy, bay, và di chuyển giống như lông chim trong cơn bão, không có sức chịu đựng.

Tâm chúng ta sẽ sắc bén hơn trong cuộc sống. Chúng ta sẽ thấy và nghe từ nhiều người khác và họ cũng giống chúng ta, đang lang thang trong bardo. Chúng ta sẽ có một số tiên tri, biết được tư tưởng người khác, nhưng chúng ta sẽ ít có năng lực phân tích hay lập luậntinh thần thiếu tập trung. Từ lúc này sang lúc khác, tâm chúng ta đung đưa qua nhiều thay đổi của hạnh phúcđau khổ, sợ hãihy vọng, an bình và khó chịu. Thỉnh thoảng cảm thấy bị nguy hiểm vì lực của những nguyên tố, như thể chúng ta bị chôn vùi dưới những ngôi nhà, hang động hay đất sụp; bị rơi và chìm trong nước; bị thiêu trong cháy rừng hay trong ngôi nhà đang cháy vì bị thổi bay trong gió bão mãnh liệt – những kinh nghiệm đó có thể tương tự với sự hòa tan của lộ trình cận tử, chỉ có ở đây chúng mới trần trụi và trực tiếp hơn.

Nếu thấy xác chết của mình, chúng ta có thể thấy nó một cách rõ ràng, như nó thực sự là, và muốn bảo vệ nó. Hoặc có thể ghét và không thèm nhìn nó. Chúng tathể không thấy hay hoàn toàn không nhận ra xác của mình. Nhiều lần, một cách huyền bí, chúng ta có thể thấy nó trong một thân tướng khác, như thân của một con chó hay con rắn. Thấy được thân thể mình có thể giúp chúng ta nhận ra trong một khoảnh khắc rằng mình đã chết, nhưng ngay sau đó chúng tathể không nhớ điều đó, vì có rất ít sức mạnh của sự tập trung để nhớ lại.

Đó là điều tại sao phải cần một thời gian dài trước khi chúng ta thật sự hiểu rằng mình đã chết. Chúng ta có ít năng lực lập luận trong bardo. Thế nên, một lúc nào đó chúng ta nhận ra mình đã chết, nhưng khoảnh khắc kế tiếp sẽ quên đi và sẽ tiếp tục thói quen cảm thấy mình còn sống.

Có thể chúng ta tìm kiếm thực phẩm mọi lúc, nhưng không thể hưởng thụ được bất cứ thực phẩm nào trừ khi có người cúng cho tâm linh hay hồi hướng cho tên chúng ta. Phần lớn chúng ta sẽ có thể hưởng được mùi của thực phẩm hơn là tự thân thực phẩm. Đó là điều tại sao nhiều bản văn nhắc đến những sinh linh trong bardo như “những người ăn – mùi” (Trong truyền thống Tây Tạng, điều này chính là lý do tại sao khói của thực phẩm nướng, hay sur (gSur), được cúng theo nghi lễ cho người chết trong nhiều tuần sau khi họ chết.)

Chúng ta có thể cảm thấy cô đơnbất an, luôn tìm chỗ trú ngụ và ổn định. Mệt mỏi vì bị cuốn theo bởi nghiệp, những cơn bão tinh thần, và cảm xúc. Chúng ta sẽ quá thất vọng về tính bền vững của thân đến nỗi có thể không quan tâm đến tình huống tương lai chúng ta bị kẹt vào. 

Một số người hồi tưởng lại những kinh nghiệm cận tử một cách chính xác khi chúng đi qua họ vào mỗi ngày thứ bảy lập lại nhiều lần sau khi họ chết, nhất là nếu nó là một cái chết thê thảm. Đó là điều tại sao cứ sau bảy ngày những người còn sống cử hành lễ hội với cầu nguyệnhồi hướng.

Chúng ta có thể tiếp cận với bạn bè mình, nhưng thật ngạc nhiên, họ sẽ phớt lờ chúng ta. Chúng ta có thể ngồi xuống bàn ăn, nhưng không một ai kéo ghế mời hay phục vụ chúng ta bất cứ bữa ăn nào. Điều đó làm chúng ta buồn, nghĩ rằng mọi người giận và không ai quan tâm tới mình. Có thể chúng ta sẽ thấy người khác tiêu xài những gì thuộc cá nhân mình hay lấy những gì họ muốn, và chúng ta có thể tức giận kết luận rằng họ đang ăn cắp của chúng ta. Vào lúc như vậy, điều tệ hại nhất mà chúng ta đã làm cho mình là chịu thua những cảm xúc tiêu cực như sự sân hận. Do vậy, chúng ta nên học hỏi về những dấu hiệu của cái chết trong lúc mình còn sống và tự nhắc mình, suy nghĩ nhiều lần, “Vào lúc chết, tôi sẽ không rơi vào những cảm xúc tiêu cực.”

PHIÊN TÒA XÉT XỬTUYÊN ÁN

Sau một lúc nào đó, nhiều người trong chúng ta sẽ chứng kiến Thần Chết (shinje; gShin rJe), đến bắt chúng ta. Họ là những nhân viên của Pháp Vương Tử Thần (shinje chokyi gyalpo; gShin rJe Ch’os Kyi rGyal Po) là vị có quyết định cao nhất trong Phiên Tòa Xét xử người chết. Thần Chết xuất hiện trong nhiều thân tướng và phô diễn những vai trò khác nhau. Bạn có thể thấy họ đến gọi bạn đến phiên tòa, giám sát sự giải thoát của việc xét xử bạn, và thi hành những sắc lệnh của Pháp Vương.

Vào lúc này, chúng ta sẽ rời bỏ nơi cư trú cũ và đi thật xa trên một hành trình cực khổ. Như thể chúng ta đi bộ vất vả qua những ngọn núi cao và những con đường chật hẹp. Theo sau bởi cảm giác vượt qua một sa mạc vô tận nóng bỏng. Sau đó chúng ta chuẩn bị đi qua một cây cầu dài và nguy hiểm bên trên một con sông cuồng loạn. Cuối cùng chúng ta sẽ đến phiên tòa của Pháp Vương của những Tử Thần. Tất cả những “di chuyển” này là kết quả của ảnh hưởng tinh thần, cảm xúcvăn hóa ghi dấu trong dòng tâm thức chúng ta. Giờ đây chúng xuất hiện trong hình dạng của những âm thanhhình ảnh bên ngoài, cảm nhận và sợ hãi, cùng với kinh nghiệm pháp luật và mệnh lệnh, khen thưởng và trừng phạt.

Những kinh nghiệm bị xét xử bởi một đấng quyền năng, thông tuệ, bị truy tố bởi đối thủ, và được bảo vệ bởi những người hỗ trợ là những biểu lộ của thói quen được nuôi dưỡng trong lúc chúng ta còn sống. Đó chính là lý do tại sao, nếu chúng ta có thể phát triển nhận thức thanh tịnh về cái thấy tất cả là Phật, tất cả những xuất hiện đến chúng ta là những biểu hiện của chư Phật, vì trong thật tánh của họ, tất cả trong thực tế đều là chư Phật.

Với những người sùng mộ, một Bổn Tôn Bảo Hộ cho người chết cũng sẽ xuất hiện, để hộ tống người chết suốt cuộc hành trình của họ. Những Bổn Tôn Bảo Hộ là những Bậc giác ngộ, thường trong thân tướng của một Bổn Tôn nam hay nữ hoặc một vị thầy tâm linh.

Phiên tòa của Pháp Vương là nơi ở đó sự tái sanh kế tiếp của chúng ta sẽ được quyết định sau khi sổ sách ghi chép những hành động tích cựctiêu cực đã được kiểm soát. Chúng ta sẽ được những vị bảo vệ thẩm vấn, người sẽ biện hộ bằng cách trình bày những chứng cớ về những hành động tích cực của chúng ta. Người khởi tố tranh luận chống chúng ta bằng việc đưa ra chứng cớ những hành động tiêu cực. Đối với việc ghi chép hồ sơ, họ kiểm tra bằng một gương trong đó những hành động của chúng ta được ghi lại; và những hòn đá sẽ đo lường hành vi của chúng ta trên một bàn cân. Như trước, đó chỉ là những phản ánh của thói quen văn hóa của xét xử, bào chữa, và khởi tố đã ăn sâu vào dòng tâm thức của chúng ta.

Phiên tòa của Thần Chết không phải là nơi để cố cầu xin hay trổ tài khôn ngoan vì nó không phải là một phiên tòa dựa trên luật pháp chuyên nghiệp, mà là sự diễn tả thực sự chúng ta là gì.

Trong những mô tả của delog thu thập ở chương kế tiếp, chúng ta sẽ đọc về sự chết du hành đến những cõi địa ngụchạnh phúc khác nhau. Nhưng những delog này không phải là những người bình thường; họ có nhiệm vụ thu thập những hướng dẫn để phục vụ và nói cho người khác biết. Ngược lại, là người bình thường, chúng ta sẽ không cần phải đi vòng quanh các cõi khác nhau, vì Thần Chết sẽ gửi chúng ta thẳng tới bất cứ cõi nào theo lệnh của nghiệp thói quen chúng ta.

DẤU VẾT CỦA SỰ TÁI SANH ĐANG CHỜ ĐỢI CHÚNG TA

Trong những giai đoạn sau của bardo, chúng ta sẽ bắt đầu thấy ánh sáng nhiều màu sắc khác nhau. Ánh sáng này tiêu biểu cho nghiệp và cảm xúc, và chỉ ra cõi tái sanh đang chờ đợi chúng ta. Nếu làm một số hành động thiện chúng ta sẽ thấy ánh sáng trắng mà cảm xúc ưu thếkiêu ngạo hay tham dục, điều đó đẩy chúng ta nhận tái sanh vào cõi trời hay cõi người theo thứ tự định sẵn. Chúng ta sẽ nhận thức một ánh sáng vàng nhạt nếu cảm xúc ưu thế là ganh tị hay vô minh, gây tái sanh vào cõi bán thiên hay súc sanh. Đôi khi một số có thể thấy một ánh sáng như màu máu cho cõi súc sanh và màu sắc của một cơn bão tuyết hay giông bão cho cõi bán thiên. Chúng ta sẽ chứng kiến một ánh sáng màu khói nếu phạm phải những hành động bất thiệncảm xúc chiếm ưu thế là tính tham lam hay keo kiệt, sẽ đẩy chúng ta tái sanh vào cõi ngạ quỷ. Cuối cùng, ánh sáng màu đen trông giống như một khúc gỗ hay một mảnh len trôi bồng bềnh nếu cảm xúc chiếm ưu thế là thù hận thì chúng ta bị đọa vào cõi địa ngục.

Tuy nhiên, những bản văn khác đưa ra những màu ánh sáng khác nhau như dấu hiệu sinh vào những cõi khác nhau.[1] Ngài Tsele viết rằng những màu ánh sáng của những cõi không chắc chắn trong mọi trường hợp.

Cõi tái sanh của chúng ta cũng có thể xuất hiện trong những hình ảnh biểu tượng. Nếu nhận tái sanh vào cõi trời, chúng ta có thể cảm thấy mình ở trên tầng cao trong một lâu đài. Nếu bị đẩy tới cõi bán thiên, chúng ta cảm thấy mình trong một bánh xe lửa. Khi vào cõi người, chúng ta sẽ nhận thức mình được ở giữa nhiều người. Hoặc có thể cảm thấy đang đến gần một hồ nước với những con thiên nga, ngựa, trâu bò, hay đi vào một căn nhà, thành phố, hoặc một đám đông. Nếu đi vào cõi súc sanh, chúng ta cảm thấy mình ở trong một hang động trống rỗng hay căn lều. Nếu đi vào cõi ngạ quỷ, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong một hang động khô ráo. Những người xuống cõi địa ngục lập tức nếu họ phạm tội nghiêm trọng thì có thể họ không thấy hình ảnh đặc biệt nào trong bardo.

Khi đến thời gian thọ thai vào cõi người, chúng ta sẽ thấy cha mẹ mình giao hợp. Nếu sắp sinh làm phái nam, chúng ta cảm thấy ghen tị với người cha tương lai của mình và yêu mến người mẹ. Nếu sắp sinh làm người nữ chúng ta sẽ yêu mến người cha và ghét mẹ. Trong thực tế cảm xúc này sẽ là điểm khởi động thụ thai trong tử cung. Sinh ra bởi tử cung là một trong bốn cách tái sinh. Những cách khác là nỗn sinh (sinh bằng trứng), thấp sinh (sinh nơi ẩm ướt) và hóa sinh hay sinh ra lập tức.

Nếu là người sùng kính cõi Tịnh Độ Cực Lạc và có thể chú tâm vào Đức Phật Vô Lượng Quang, chúng ta có thể bay đến cõi tịnh độ giống như chim đại bàng bay qua bầu trời ngay khi chúng ta ra khỏi thân. Vào lúc đó, chúng ta có thể nghe hay thấy những người thương mến hoặc kẻ thù gọi chúng ta trở lại. Họ không thực sự là người thương mình, mà cảm xúc của chính chúng ta khởi động như sự che ám. Do vậy, chúng ta phải hoàn toàn chú tâm vào cõi tịnh độ. Ngài Chagme Rinpoche nói:

Trong lúc con trên con đường đến cõi tịnh độ,
Con có thể nghe cha mẹ, họ hàng, hay bạn bè gọi,

“Tôi đây. Đừng bỏ tôi. Hãy đến đây.”

Họ có thể gọi tên con, kêu khóc và than thở

Nhưng họ là những thế lực tiêu cực đang chướng ngại sự giải thoát của con.

Hoàn toàn đừng nhìn lại hay trả lời họ.

Ngoài việc nhớ nghĩ về Đức Phật Vô Lượng Quang,

Đừng suy ngẫm bất cứ điều gì – 

Mà chỉ nghĩ về hạnh phúchoan hỷ của cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Đừng bám luyến bất cứ thứ gì. Thì chắc chắn con sẽ đạt tới cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Chương 7 trình bày một số giải nghĩa của Đức Phật Vô Lượng Quangcõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài, đặt nền tảng trên những kinh điển, giáo lý của Đức Phật lịch sử, Thích Ca Mâu Ni.

Chúng Ta Nên Làm Gì Trong Bardo?

Chúng ta nên xử lý trong bardo ra sao? Trước tiên, điều quan trọng là xác định mình đã chết hay chưa, nên chúng ta phải thấy những dấu hiệu chắc chắn sau:

• Nhìn vào một gương hay mặt nước, nếu không thấy phản chiếu, bạn đã chết.
• Đi trên cát hay trên tuyết. Nếu khôngdấu chân, bạn đã chết.
• Đi trong ánh nắng mặt trời hay trong ánh sáng. Nếu không thấy có bóng phía sau, bạn đã chết.
• Nếu người ta không đáp ứng bạn, thậm chí không nhìn bạn, hoặc họ không phục vụ thức ăn cho bạn, điều đó không phải lỗi của họ cũng không phải họ giận bạn. Đó là vì bạn đã chết.

Sau khi nhận ra bạn đã chết, hãy cố đừng cảm thấy buồn hay bị chấn động, vì điều này sẽ không giúp ích mà chỉ gây hại. Hãy cố gắng phản ứng với cái chết theo ba cách sau:

1. Hãy nhận ra bạn ở tại mối nối quan trọng nhất của cuộc sống bạn. Vì lợi ích tương lai, bạn không thể lãng phí một giây phút nào. Đây là cơ hội lớn nhất để nâng cấp.

2. Hãy nhớ và cảm thấy hạnh phúc về bất cứ con đường tâm linh nào mà bạn đã theo đuổi. Đó sẽ là suối nguồn vĩ đại của an bình, hoan hỷ, và sức mạnh cho bạn.

3. Hãy nhớ lại một trong bất kỳ ba thực hành theo khả năng và kinh nghiệm của bạn. Sau đó cố gắng an trụ trong thực hành đó không sao lãng.

(a) Khi bạn thấy thân tướng của một người nam hay nữ, như đã nhắc đến trong Sự giải thoát bằng việc nghe, hãy nhận ra các Ngài như vị Phật nam hay nữ của những gia đình Phật và cõi tịnh độ. Nhận thức các Ngài là sự phản chiếu của chính Phật tâm bạn. Nếu cố gắng thấy Ngài bằng nhận thức tích cực, bạn sẽ thấy các Ngài là suối nguồn của ân phước, như tất cả các Ngài chỉ là dấu ấn của tâm trong bardo.

Hãy nhớ những cảm giác sùng kính đến chư Phật, đến vị thầy tâm linh của bạn, và sự thiền định của mình. nếu có bất kỳ kinh nghiệm nào trong thiền định mật truyền, hãy cố gắng nhận ra tính hợp nhất (nhất như) của mọi sự xuất hiện, vì tất cả những gì xảy ra đều là một trong thật tánh của chúng, theo con đường của mật tông. Bạn phải cố gắng thấy và cảm nhận rằng tất cả hình tướng, âm thanh, và cảm nhận hiền minh hay phẫn nộ mà bạn có thể gặp chỉ là năng lực biểu hiện của nhất như đó. Hãy thấy ánh sáng như ánh sáng-trí tuệ, hoặc chuyển chúng thành ánh sáng trí tuệ qua những kỹ thuật thiền quán nào quen thuộc với bạn. Đứng bám chấp hay xoay sở chống lại các vị, có thái độ của chủ thể chống lại đối tượng; thay vào đó, hãy rộng mở và trở thành một với các Ngài. Hãy buông xả trong trạng thái nhất như đó. An trụ trong đó nhiều lần.

(b) Nếu không phải là một thiền giả đã kinh nghiệm hay giác ngộ, mà là một người tâm linh, trước hết bạn phải cố an định tâm, sau đó cố gắng nhớ lại sự hỗ trợ tâm linh của bạn, hoặc là một sự hiện diện linh thiêng, một vị thầy, hoặc một kinh nghiệm tích cực hiện diện với bạn và trong bạn. Hãy cố gắng giữ tâm thức bạn tập trung vào điều đóù nhiều lần, thay vì bị sao lãng khắp nơi. Cố gắng có lòng bi với người khác thay vì chống lại họ. Cố thấy mọi thứ như biểu hiện thiêng liêng thay vì nguồn của sợ hãiđau khổ. Cố gắng tụng niệm mantra và nghe mọi âm thanh như những ngôn từ của sùng kính và lòng bi thay vì than khóc. Chúng ta phải cố gắng trụ trong môi trường tâm linh như vậy trong suốt hành trình chuyển tiếp của mình, những hồi ức tích cực, những cầu nguyện sùng mộ, và lòng bi rộng mở sẽ trở thành một suối nguồn của năng lực bảo vệ, kinh nghiệm êm dịu, và ánh sáng trí tuệ làm cho chuyến hành trình chuyển tiếp thành cuộc dạo chơi hoan hỷ

Người có kinh nghiệm tâm linh có thể thực hiện việc phục vụ người khác. Qua năng lực cầu nguyện, tạo công đức, sùng kính, hoặc thiền định có thể đem tâm chúng ta đến một hình ảnh (hay một đối tượng) và làm an định nó. Sau đó các Ngài có thể ban giáo lý cho chúng ta, cầu khẩn ân phước lòng bi của những Bổn Tôn, và ban quán đảnh để dẫn dắt tâm chúng ta đến Phật quả hoặc tối thiểu cũng dẫn dắt tới tái sanh tốt. Nếu có một số thiện nghiệp như nguyên nhân, những phục vụ thiền định này sẽ hoạt động như hoàn cảnh hiệu quả, và sự phục vụ sẽ lợi ích nhất. Những phục vụ như vậy có thể trở thành một điểm chuyển thật sự cho chúng ta trong chuyến hành trình chuyển tiếp.

Bất cứ những ký ức hay kinh nghiệm tích cực nào mà chúng ta có thể tập hợp lại, chúng sẽ phát triển và làm mạnh mẽ nguồn lực an bình, hoan hỷ, sùng kính, tình thương, nhận thức thanh tịnhtrí tuệ. Lực đó sẽ dẫn đến việc đạt giác ngộ hay tới một tái sanh tốt hơn – cũng giống như lực của cảm xúc tiêu cực làm chúng ta tái sanh trong cõi địa ngục, thậm chí nếu chúng ta đã bị định đoạt bởi chúng. Bất cứ những kinh nghiệm tâm linhsức mạnh nào chúng ta đã thu được trong cuộc sống mình sẽ chắc chắn mang lại kết quả đúng lúc. Tuy nhiên, hãy thận trọng làm cho lực của thiện nghiệp hoạt động thay vì làm cho nghiệp tiêu cựcchúng ta cũng có cơ hội có được thống trị cuộc sống của mình. Ngài Longchen Rabjam khai thị:

Mặc dù sự khởi lên [của bản tánh tối thượng] đã xuất hiện trong cách đó[2], nếu con không thể nhận ra chúng,
Bardo của lộ trình chuyển tiếp, sẽ xuất hiện, giống như một giấc mộng.
Sau đó, nhờ nhớ đến những cõi tịnh độ của chư Phật, và
Tìm kiếm quy y nơi vị thầy tâm linh và Bổn Tôn bảo vệ của con,
Con có thể thọ tái sanh vào cõi tịnh độ và đạt giải thoát.
Thay vào đó, nhiều người có thể nhận tái sanh làm người có bảy bậc phẩm tính, và
Việc đạt giải thoát sẽ chắc chắn trong lần tái sanh kế tiếp của họ.

(c) Bạn có thể đi qua các ảo ảnh dối gạt của bardo mà không có nhiều kinh nghiệm tâm linhthiền định. Nếu như vậy, bạn phải cố nhớ đừng giận dữ, rối loạn, hay sợ hãi, mà hãy nỗ lực thấy mọi hình tướngkhông thật, giống như một giấc mộng. Không ai kết hợp một phô bày của những sắp đặt chuyển tiếp vì lợi ích của bạn, vì chúng chỉ là những hình ảnh ảo tưởng do những thói quen tinh thầnquá khứ của bạn, được khích động bởi cảm xúc phiền não. Cố gắng làm tâm bạn rộng mở, tích cực, ổn định, và an bình thay cho việc sử dụng bám chấp hay nhận thức tiêu cực với những cảm xúc của tham, sân, và si. Hãy cố cảm thấy lòng bi với người khác, những người cũng đang bị vùi dập trong chuyến hành trình kinh hoàng này. Nếu có thể phát triển và duy trì một trạng thái tâm thức tích cực như vậy, được tịnh hóa bởi ngọn gió của sùng kính hoặc năng lượng của lòng bi, tâm bạn sẽ ở trong đại an bình, giống như bầu trời trong sáng không mây. Không có đám mây đen nào của năng lượng nghiệp tiêu cực xảy đến, bóng dáng của rối loạn hay đau khổ sẽ bị xua tan. Ánh sáng hoan hỷ, an bình như mặt trờimặt trăng sẽ thắng thế khắp kinh nghiệm của bạn về bất kỳ hiện tượng nào khởi lên, bảo đảm một chuyến hành trình đầy dẫy hạnh phúc.

Ngoài ba thực hành trên, chúng ta cũng có thể nhớ cách làm sao “đảo ngược” tiến trình nhận tái sanh vào các cõi thấp, nếu đối mặt với chúng. Nếu bạn thấy những dấu hiệu của một nơi tái sanh thấp – ánh sáng mờ và những dấu hiệu, nơi sinh hoặc cha mẹ trong tương lai – điều quan trọng nhất là đừng rơi vào những tư duy hay cảm xúc tiêu cực, như bám chấp, thèm khát, thù hận, bám luyến, ganh tị, sợ hãi, hay rối loạn. Hãy cố thấy chúng với một tâm buông xảan bình bằng cách nhận ra chúng chỉ là sự tạo tác của tâm chúng ta. Hoặc bạn có thể cố thấy chúng như những nam, nữ Bổn Tôn và cõi tịnh độ của các Ngài. Hãy cầu nguyện đến những Bổn Tôn và vị thầy tâm linh xin ban phước và hướng dẫn.

CHUYẾN HÀNH TRÌNH TƯƠNG LAI CỦA CHÚNG TA

Trong đời này, tâm thức chúng ta tương đối ổn định vì được neo giữ trong cấu trúc vật chất thô và phàm tục. Điều này làm dễ dàng đạt được những quan điểm tinh thầnthói quen tư duy qua thiền định. Nhưng cũng khó tạo được thay đổi hoặc cải thiện lớn vì tâm bị giam giữ và được lập trình trong hệ thống thân thể trần tục, không linh hoạt của chúng ta.

Tuy nhiên, trong hành trình chuyển tiếp của bardo, tâm thay đổi nhanh chóng không có bất kỳ cấu trúc chướng ngại nào. Do vậy, tâm dễ dàng thay đổi hay cải thiện chuyến hành trình tương lai của chúng ta. Nhưng cũng khó tìm được con đườngchú tâm vào nó vì không có khả năng neo bám vào một thân vật chất. Tâm không thân của chúng ta sống trên những thói quen quá khứtrôi nổi mau lẹ không gián đoạn ở một tốc độ cao hướng đến số phận tương lai của nó.

May mắn thay, ngày nay chúng ta còn sống và có một thân trần tục vững chắc để có thể chuẩn bị cho bardo và kiếp sống kế tiếp. Nếu có thể hưởng thụ an bình, hoan hỷ, và trí tuệ trong lúc còn sống, thì khi cái chết đến, chúng ta sẽ thực sự có thể chào đón nó, nghĩ rằng, “Tôi thật hạnh phúc, vì đã làm mọi chuẩn bị cho giây phút này. Tôi không để lãng phí bất cứ cơ hội như vàng nào của mình.”

Trong bardo tâm chúng ta sẽ trong sáng và hùng mạnh hơn lúc còn sống. Những kinh nghiệm của tâm sẽ nhiều sắc bén và nhạy cảm hơn. Nếu có được những kinh nghiệm tích cực trong lúc còn sống, chúng ta sẽ hưởng thụ kết quả của nó trong lộ trình chuyển tiếp này một cách rất thoải mái, trong sáng, và hiệu quả. Nhưng tâm sẽ rất khó bắt đầu một kinh nghiệmtinh thần mới, khi chúng ta cần sự kiên định để trau dồi những thói quen mới.

Nếu sự tỉnh giác của an bình, hoan hỷ, và rộng mở đã trở thành một phần trong đức tính của tâm thức trong lúc chúng ta còn sống, thì trong bardo mọi trạng thái tâm thứchiện tượng quanh chúng ta sẽ xuất hiện như những hình tướngkinh nghiệm tích cực. Thậm chí năm cảm xúc phiền não của tâm chúng ta cũng sẽ xuất hiện như năm trí tuệ, và năm nguyên tố vật chất là năm ánh sáng nội tại, đó là năng lượng ánh sáng hiện diện tự nhiên của trí tuệ.

Tập hội những bậc linh thiêng trong thân tướng nam và nữ, sẽ dẫn dắt chúng ta trên con đường. Thân tâm thức của chúng ta như một chim ưng bay xa qua bầu trời xanh trong không mây vô tận với một đại phô diễn của những cúng dường huyền diệu, âm nhạc du dương, và vũ điệu hoan hỷ tràn đầy toàn bộ không gian. Chúng ta sẽ được chào đón đến những cõi tịnh độ hay thiên đường đẹp đẽ, an bình, và hỷ lạc nhất. Chúng ta cũng sẽ có năng lực dẫn dắt người khác đến những cõi tịnh độ này với sự đại hoan hỷ. Tất cả những điều này sẽ chỉ xảy ra do sự chuẩn bị tâm linh chúng ta đã làm trong lúc còn sống.

[*] Tạng, driza, Dri Za; Phạn, gandhava (càn thát bà): một bộ sinh linh-tâm linh, là những nhạc sĩ của cõi trời và sống với mùi như hương trầm.
[1] Ngài Karma Lingpa và Tsele cho ánh sáng trắng là cõi thiên, đỏ cho bán thiên, xanh dương cho cõi người, xanh lục cho súc sanh, vàng nhạt cho cõi ngạ quỷ, và ánh sáng màu khói cho cõi địa ngục. (Về cõi địa ngục, một số bản văn nói rằng vì bạn sẽ đi thẳng xuống địa ngục nên sẽ không có cơ hội thấy bất kỳ ánh sáng nào.) Ngài Dudjom cho ánh sáng trắng cho cõi thiên, xanh lục cho bán thiên, vàng cho cõi người, vàng nhạt cho súc sanh, đỏ cho ngạ quỷ, và màu nâu sậm cho địa ngục. Ngài Tshulthrim Zangpo cho màu trắng cho chư thiêncõi người, vàng cho bán thiên và súc sanh, và đen cho ngạ quỷđịa ngục.

[2] Trong cách đã mô tả trong chương 3, “Bản Tánh Tối thượng”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15565)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23015)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14046)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12960)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55094)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9155)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14430)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14157)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14196)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13877)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36302)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19871)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18162)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19207)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19131)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20278)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17631)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31523)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15930)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15007)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14678)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46169)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35926)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21044)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21590)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23388)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34369)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19473)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18941)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22922)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20166)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18350)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19832)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19521)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33400)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34471)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54507)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37711)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21129)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17869)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63632)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17377)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49648)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27421)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20270)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23016)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18888)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16318)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17909)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20933)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17353)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14463)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16859)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16368)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15990)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17459)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21975)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15092)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13490)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14359)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15381)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14981)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12694)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13347)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27386)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12508)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13183)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14481)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16217)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12389)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15392)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12861)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12192)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13194)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21640)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11274)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22708)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15069)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14930)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46176)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22436)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14564)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12614)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18895)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14725)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43851)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56963)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13832)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47477)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13648)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14565)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28999)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33301)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38372)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15394)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31224)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12521)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40381)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43413)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46650)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant