Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2- Niềm vui ngày xuân

14 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6619)
2- Niềm vui ngày xuân


THẨM MỸ MÙA XUÂN

Thích Thông Huệ 

2- NIỀM VUI NGÀY XUÂN

Nói đến xuân, hầu như ai cũng nghĩ đến sự tốt đẹp, an vui, mới mẻ. Bởi vì, mùa xuân là mùa của tiết trời ấm áp, của vạn vật hồi sinh sau những tháng đông tàn tạ lạnh lẽo. Mùa xuân cũng khiến lòng ta dịu lại, trải rộng ra, hòa nhập với đất trời và đồng cảm với mọi người.

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Ngày xưa, ông cha ta đón xuân bằng những món ăn tinh thầnvật chất đơn giản như thế. Bây giờ, bánh chưng dưa hành được bày bán quanh năm, câu đối đỏ và cây nêu tràng pháo không còn phổ biến, nên không khí Tết đã khác xưa rất nhiều. Dù vậy, tâm trạng nôn nao mong chờ trong những ngày giáp Tết và niềm vui rộn rã háo hức trong lúc đón xuân, xưa và nay vẫn không thay đổi mấy. Hoàn cảnh gia đình không ai giống ai, nhưng người nào cũng muốn nhà mình sạch sẽ hơn, tươm tất hơn ngày thường. Người lớn trang phục chỉnh tề, trẻ nhỏ ít nhiều cũng có tấm áo mới và tiền lì-xì mừng tuổi. Cách nói năng đối xử với nhau cũng có phần cẩn trọng, lịch sự, biểu hiện sự hoan hỉ, thông cảm giữa người và người.

Ở nước ta, những thú vui, trò giải trí được tổ chức thật đa dạng trong những ngày đầu năm: từ những thú tao nhã như chơi hoa, vẽ tranh, thư pháp... đến những trò giải trítính cách dân gian hoặc các lễ hội truyền thống mùa xuân. Tất cả đều được hưởng ứng nồng nhiệt, được tham dự đông đảo. Ðiều này nói lên tính cách của dân tộc Việt, dù hoàn cảnh khó khăn đến mấy, cũng không mất sự lạc quan yêu đời. Thật khó tìm thấy ở nơi nào khác mà người dân lại hưởng tết quá lâu, quá kỹ và quá nhiều màu sắc như Việt Nam ta.

Cũng chính vì vậy, phần đông những người xa xứ đều mang trong lòng nỗi nhớ quê hương, đều tìm cơ hội về thăm nơi chôn nhao cắt rốn để hưởng một mùa xuân sum họp. Trước bàn thờ tổ tiên, họ sẽ thành tâm dâng lên ông bà cha mẹ những thành quả trong học tập, trong công danh mà mình đã đạt được. Ðồng thời, họ cũng bùi ngùi nhận ra rằng, mình chưa báo đáp được đầy đủ công ơn trời biển của các Người; tự hứa với lòng sẽ tìm cách giúp đỡ gia đình, người thân và những ai không may mắn, để bù đắp lại những tháng ngày hờ hững đã qua.

Ðối với người Phật tử, mùa xuân là lúc thích hợp để hành hương, chiêm bái các tự viện. Một số người còn nặng về phước lộc đến chùa cầu Phật Trời ban cho sức khỏe, hạnh phúc và mọi điều may mắn trong cuộc sống. Họ nghĩ đến Phật như một đấng thần linh, một chốn náu nương trừu tượng nhưng cũng là nguồn an ủi, là sự động viên tinh thần quý giá.

Những ngày đầu năm cũng là dịp để chúng ta đến thăm bà con, bạn bè, cùng tặng nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng uống với nhau ly rượu, một tách trà. Nếu có điều kiện, chúng ta tổ chức tham quan những di tích lịch sử, những thắng cảnh của quê hương để thấy rằng đất nước ta thật đẹp đẽ, dân tộc ta thật kiên cường bất khuất.

Tình yêu quê hương sẽ có dịp được tăng trưởng, tình cảm giữa người và người có dịp được thắt chặt. Ta sẽ thấy lòng mình chan hòa cùng đất trời và con người, ta sẽ biết cách sống đầy tình nghĩa với đồng bào đồng loại. Ta cũng biết tôn trọngbảo vệ môi trường sống chung qua ta, bởi vì vạn vật đối với ta đều vô cùng thân thiết.

Tuy nhiên, những loại hình giải trí đa dạng cũng chỉ “mua vui một vài trống canh”, niềm hạnh phúc sum họp rồi cũng nhường cho nỗi sầu ly biệt. Mấy ngày Tết rộn ràng bao nhiêu, khi trở lại với những lo toan đời thường, chúng ta càng thấy quạnh quẽ trống vắng. Nhất là đối với những người luống tuổi neo đơn, khi con cháu lần lượt ra đi hết, thì niềm sum họp ngắn ngủi ngày nào càng làm nặng nề hơn nỗi buồn hiu quạnh hôm nay.

Cho đến niềm hạnh phúc của người Phật tử cảm nhận được khi đến chùa, cũng chỉ hiện hữu khi họ còn chiêm ngưỡng dung mạo và nụ cười tự tại của Ðức Phật, còn đắm mình trong khung cảnh bình an của ngôi Già-lam. Trở về nhà, họ lại bị quay cuồng trong vòng xoáy của cuộc tồn sinh, lại bị đắm nhiễm trong trần cảnh và bị trói buộc trong xiềng xích danh lợi. Vì thế, trong niềm vui nào cũng ẩn hiện bóng dáng của khổ đau, vì vui ấy do vay mượn từ bên ngoài và vì nó không bền lâu, không chắc thật. Cũng như mùa xuân đất trời, chỉ hiện diện trong ba tháng rồi theo luật tuần hoàn, nhường chỗ cho mùa hè nóng bức. Nhà Phật gọi đó là cái vui sinh diệt, vui trong vô thường.

Vậy thì, có niềm vui nào tồn tại vĩnh viễn không? Nếu có, bằng cách nào chúng ta tìm được niềm vui ấy? Ðây là vấn nạn của con người, và chính Ðức Phật đã đưa ra lời giải đáp tường tận, cách đây hơn 25 thế kỷ.

Chúng ta thường đổ thừa hoàn cảnh và những tác nhân bên ngoài gây đau khổ cho mình. Rất ít người chịu nhìn lại bản thân, xem phiền não do đâu mà có. Kinh Lăng Nghiêm kể đoạn ngài A-Nan hỏi Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, thế nào là cội gốc phiền não sinh tử, thế nào là cội gốc Bồ-đề Niết-bàn?”. Câu trả lời đến từ mười phương chư Phật: “Cội gốc phiền não sinh tử là sáu căn của ông, cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông chứ không đâu khác!”.

Mắt thấy sắc liền phân biệt đẹp xấu, đẹp thì muốn chiếm làm của riêng, xấu thì sanh tâm ghét bỏ, khi lòng tham không thỏa mãn lại phát khởi sân hận...Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên theo pháp trần... mỗi mỗi đều dính mắc nên tạo nghiệp. Nghiệp thiện dẫn ta đến các cõi lành, nghiệp ác dẫn vào đường dữ, rốt cuộc cứ quẩn quanh trong ba cõi sáu đường! Như thế, nếu các căn tiếp xúc với trần cảnh mà dính mắc, thì ngay hiện đời đã chịu phiền não, khi mất thân lại mang nỗi khổ lớn nhất, ấy là cái khổ luân hồi sinh tử. Ngược lại, nếu vẫn tiếp duyên xúc cảnh mà không khởi tâm phân biệt, thì nghiệp do đâu phát sinh? Vòng luân hồi đương nhiên bị chặt đứt.

Hình tượng Ðức Bồ tát Di-Lặc mập tròn, bụng to, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, nụ cười thật thoải mái với những đứa trẻ vây quanh, biểu hiện một niềm hạnh phúc vô bờ. Vì sao Ngài có được sự hỷ lạc tuyệt vời đến thế? Những đứa trẻ tượng trưng sáu trần luôn bám theo Ngài quậy phá, như trần cảnh lúc nào cũng hiện hữu xung quanh chúng ta. Nhưng khác với chúng ta, Ngài tuy vẫn tiếp duyên mà không chấp trước, không nhiễm ô. Vì Ðại xả nên lục tặc biến thành lục thông, nên Ngài luôn luôn có một niềm vui trọn vẹn, miên viễn (Ðại hỉ). Niềm vui nầy là tiền đề của hạnh phúc tuyệt đối - hạnh phúc giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Như vậy, hạnh phúc thật sự của con người không phải từ bên ngoài đến, mà từ sự buông xả ở ngay nội tâm mình. Trong đời sống thường nhật, chúng ta xả bỏ những tranh chấp hơn thua, những điều thị phi không như ý, xem đó chỉ là những cơn mưa bóng mây thoáng qua rồi mất; ngay lúc ấy, ta thấy mình được an ổn đôi phần. Tiến lên một bước, ta quán chiếu trần cảnh chỉ là duyên hợp giả có, tâm không khởi phân biệt khi các căn tiếp xúc các trần. Biết rằng mọi ý niệm đều hư dối, từng bước ta buông xả hết mọi tình chấp đối với ta - người và các pháp. Buông xả thì mới hay Niết bàn tại hiện tiền chứ không ở đâu xa lạ, và mùa Xuân bất diệt cũng ở ngay tại đây và bây giờ!

Nhận ra mùa Xuân bất diệt ấy, Sơ Tổ Trúc Lâm Ðiều Ngự Giác Hoàng đã làm bài kệ:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Ðông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Hòa thượng Trúc Lâm dịch:

Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Chiếu trải giường thiền ngắm cành hồng.

Tuổi trẻ chưa thấu rõ lý sắc không, cứ mãi mê đuổi theo ngoại cảnh, nên khi thấy hoa nở báo xuân về, lòng bỗng nhiên rộn ràng cảm xúc. Ngày nay, Ngài đã khám phá bộ mặt thật của Chúa Xuân, tức nhận ra bản lai diện mục của chính mình và quán triệt thực tướng của các pháp. Các pháp do duyên tụ hợp, hết duyên lại trở về không, tánh của các pháp vốn là Không, nhờ duyên hợp nên giả có. Bằng cái thấy siêu việt nhị nguyên, Thiền sư luôn sống trong mùa xuân vĩnh cửu; Ta-bà cũng là Tịnh-độ, phiền não và Bồ-đề không hai không khác. Người vô sự ngồi trên giường thiền, ngắm từng cánh hồng rơi rụng mà lòng vẫn an nhiên. Bởi vì, hoa nở hoa tàn vẫn là xuân, mỗi phút giây đều là xuân.

Trong hội Linh Sơn, khi Ðức Phật đưa cành sen xanh lên, nhìn khắp lượt đại chúng, Ngài bắt gặp ánh mắt Ca-Diếp. Thời điểm bốn mắt nhìn nhau là một khoảnh khắc thiên thu. Tâm thầy và tâm trò tương ưng, không lời diễn tả nên chỉ biết mỉm cười! Nụ cười Ca-Diếp là hình ảnh tuyệt đẹp thể hiện sự khế hợp Thầy-trò trong một thực tại vô ngôn, khi Chúa Xuân bị khám phá. Ý nghĩa sâu xa của sự tích Niêm hoa vi tiếu không phải là ở chỗ niêm hoa (đưa cành hoa lên) hay vi tiếu (mỉm cười), mà chính là sự giao cảm bất tư nghì giữa tâm Thầy và tâm trò, tại thời điểm tứ mục tương cố (bốn mắt gặp nhau). Do vậy, Ðức Phật mới trao truyền Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm cho Ca-Diếp. Và cũng từ đó, Phật pháp lưu truyền như nước từ nguồn tỏa khắp các nhánh sông, mang đến sức sống cho muôn loài muôn vật. Cho đến ngày nay, sức sống ấy vẫn luôn tuôn trào, để những người hữu duyên có thể nhìn thấy nhánh mai vàng rực rỡ trong một đêm cuối xuân!

Nhân mùa xuân đất trời lại đến, chúng ta hãy cùng chân thành chúc nhau sớm khám phá Chúa Xuân miên viễn của chính mình, sớm có niềm vui thưởng thức vẻ đẹp của cành mai không bao giờ tàn tạ. Niềm vui ấy mới là tuyệt đối, là vĩnh cửu, mới là mục đích cao tột trong đời tu của tất cả chúng ta.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21601)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20327)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22187)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18655)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26870)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18575)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19823)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 37934)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20015)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28166)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46122)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15338)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65482)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13617)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18495)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15436)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14467)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18607)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12536)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17538)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25306)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38563)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17572)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11173)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18464)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17316)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13096)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13242)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17402)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24197)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12295)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13727)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12923)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12807)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14089)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14516)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21033)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22487)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29856)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13761)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18136)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 16946)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12531)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30629)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22655)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14535)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12930)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12654)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12443)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 12985)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16239)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15086)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23753)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16103)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28873)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20200)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15488)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37101)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 44914)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant