Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11492)
Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

THỬ BÀN NGÀY XUÂN

ĐỐT VÀNG MÃ SỚ SAO, NÊN HAY KHÔNG?
Lê Văn Cơ

Hàng năm bà con nhân dânPhật tử chúng ta thường hay có tục lệ đốt vàng mã, sớ sao vào các dịp cúng giỗ tiên tổ hoặc đi lễ bái ở đình, đền, chùa, miếu, nhất là vào những ngày lễ lớn như Rằm tháng Giêng, thanh minh, vào hè, ra hạ, Rằm tháng Bảy và Tết Nguyên đán...

Xung quanh việc này có biết bao lý do và mỗi người giải thích một lẽ khác nhau: Có người nói rằng vì trần sao âm vậy, nên chúng tôi đốt để gửi cho người âm phủ được dùng, có người nói rằng những người đi trước đều làm như vậy, nên chúng tôi cũng làm theo để cho yên tâm. Hoặc có người vì thấy bà con hàng xóm mua sớ đốt thì mình cũng phải đốt kẻo bị họ chê trách là mình không thương các cụ. Lại còn có người bảo rằng tại vì con vụng khấn vái nên phải nhờ tờ vàng cánh sớ tâu giùm lên Phật Thánh các Ngài mới chứng cho...

Vậy thì lẽ thực hư của vấn đề này ra sao? Quan điểm của nhà Phật về vấn đề này như thế nào? Là người ngoại đạo, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều cùng quý bà conPhật tử gần xa như sau:

Thứ nhất là việc đốt mã: Việc này xuất phát từ Trung Quốc, các vua chúa phong kiến thời xưa, khi chết họ cho chôn theo mình vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ thậm chí cả vợ con nữa để mong được tiếp tục cuộc sống vương giả ở thế giới bên kia. Việc làm này của tầng lớp vua chúa, dần dần lan truyền rộng đến dân chúng và trở thành một tập tục. Song đa số dân chúng đền nghèo khó, lấy đâu ra vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ để chôn theo. Từ đó mới nảy sinh ra việc làm hình nhân giấy thế mạng, làm vàng mã thay cho của cải thật. Rồi từ việc phải chôn các thứ đồ theo cùng có nhiều phiền phức, lại hao tốn đất đai canh tác, mới dần dần chuyển sang hình thức đốt hoá cho người đã mất, với niềm tin rằng họ sẽ hưởng dụng được những thứ đó. Song thật sự họ có dùng được hay không? Như chúng ta đã biết, dù chôn theo vàng bạc của cải thật thì khi khai mộ cải táng, thấy rõ các đồ vật này đâu vẫn hoàn đấy có chăng thì chúng bị hư mòn bởi thời gian mà thôi, chứ đâu phải do người chết lấy tiêu dùng. Của cải thật mà còn như vậy, huống chi là đồ mã, lại còn đem đốt hoá thành tro tàn mây khói.

Một sự thật rất vô lý hiện nay là chúng ta đem đốt ôtô, xe máy, đốt ti vi, tủ lạnh để cho người đã mất dùng, song họ sẽ dùng thế nào đây? Chúng ta đốt ô tô, xe máy mà chẳng đốt xăng dầu, đốt ti vi, tủ lạnh mà chẳng đốt điện xuống thì thử hỏi làm sao mà họ có thể dùng được? nếu bảo trần sao âm vậy thì chúng ta phải làm cho đầy đủ các thứ đó mới được. Lại còn một thực tế nữa là ông bà tổ tiên chúng ta xưa kia đi chân đất, guốc mộc, ngồi xe ngựa, xe trâu, xe đạp có khi còn chưa biết đi huống chi là ôtô, xe máy Do đó nếu muốn thì chúng ta phải đốt thêm sách hướng dẫn sử dụng, bộ luật giao thông và cả bằng lái xe nữa chứ? Chúng tôi nói vậy, nếu mấy nhà làm hàng mã mà nghe được thì họ sẽ phất to! Có thể họ sẽ tiếp tục làm thêm ra đủ các thứ lệ bộ nói trên và yêu cầu bà con phải mua cho đủ mới được. Như vậy thì chúng ta bị mắc lừa bởi cái hư tưởng trần sao âm vậy đó.

Thứ hai là việc đốt tiền âm phủ, nó còn phi lý hơn cả việc đốt mã nói trên nữa. Sự thực trên thế gian chúng ta, tiền nước nào thì phải do chính phủ nước đó in ấn phát hành mới được coi là hợp pháp. Vậy thì việc trần gian chúng ta in tiền vàng mã, rồi phát hành xuống âm phủhợp pháp hay bất hợp pháp đây? Lỡ tiền chúng ta in ra chẳng đúng với tiền âm phủ (giả dụ là ở âm phủ có tiêu tiền) thì ông bà chúng ta sẽ bị vi phạm luật pháp âm phủ vì tội tiêu tiền giả phải không? Còn nếu như quả thật hàng năm, vua Diêm Vương có lên trần gian vào từng nhà chủ làm vàng mã đặt in tiền cho âm phủ thì chúng ta cũng khả dĩ tin được việc này. Song chúng tôi tin chắc, chẳng có ông chủ hàng mã nào được Diêm Vương đến nhà mình đặt in tiền cả. Trên thực tế các nhà sản xuất hàng mã đều tuỳ theo thị trường mà họ in ấn.

Những năm về trước, đồng tiền âm phủ có in hình vua Diêm Vương (mặc dù họ chẳng biết mặt vua Diêm Vương ra làm sao), gần đây, khi kinh tế mở cửa, thấy đồng đô la có giá trị thị họ lại đổ xô vào in tiền đô la âm phủ, và tức cười nhất là đồng tiền không in hình vua Diêm Vương mà lại là hình ông Tổng thống Mỹ. Chưa biết chừng sắp tới họ còn in tiền Bảng Anh, tiền EURO để bán cho bà con nữa đấy. Trong khi đó ở ngay các nước Châu âu, Châu Mỹ và nhiều nước khác nhân dân không có tục đốt vàng mã thì không biết thân nhân của họ tiêu bằng tiền gì hay họ phải chịu mình trần nhịn đói hoặc sang nước ta để làm thuê cho ông bà, ông vải chúng ta sao? Điều này chúng ta thấy có phi lý hay không? Dưới đây chúng tôi xin lược dẫn trong sử sách nói về việc này như sau:

Sách Pháp Uyển Châu Lâm có ghi: “Từ trước đời Hậu Hán, trong việc tang ma vẫn dùng tiền bạc thật để chôn theo người chết. Đến đời Đường, ông Vương Dư đã nghĩ ra cách dùng tiền bạc bằng giấy để thay thế cho...” Nghề làm vàng mã đã một thời phát triển rất mạnh, song không bao lâu, người Trung Hoa lại có ý chán bỏ vì chẳng thấy hiệu nghiệm gì cả. Vì vậy nghề nghiệp gia truyền của họ Vương Dư dần phải bị mai một. Bởi thế nên con cháu của Vương cố hết sức tìm mưu kế để chấn hưng lại nghề hàng mã của mình. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác chép: “ông Vương Luân là con cháu của Vương Dư thời vua ấn Đế nhà Hán... đã lập mưu bằng cách bảo người bạn thân giả bệnh gần chết rồi cho ai nấy đều biết. Chừng bốn năm bữa, ông loan tin người bạn đó đau bệnh đã chết. Sau đó khâm niệm, bỏ vào quan tài (quan tài có lỗ trống để người bạn vẫn thở được). Đến ngày làm lễ di quan đi chôn, ông Vương Luân tổ chức lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, lại làm một hình nhân thế mạng cùng những đồ mã như tiền vàng, nhà cửa, áo quần... ông Vương Luân tự làm lễ để cầu cho người bạn thân đó được may ra sống lại. Cúng tế xong ông đốt hết vàng mã, giấy tiền hình nhân thế mạng. Khi đốt xong thì linh nghiệm thay! Quan tài tự nhiên rung động, ai nấy mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra, người bạn thân của Vương Luân quả thật đã sống lại được. Anh ta liền đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất và thuật lại chuyện cho công chúng nghe rằng: “Chư Vị âm Thần đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng liền thả hồn về dương thế, nên nay tôi được sống lại, cũng nhờ ông Vương Luân đốt vàng mã và hình nhân thế mạng. Mọi người ai cũng tin răm rắpsự thật, nên đốt mã của Vương Luân từ đó được hưng thịnh trở lại. Sau này do sự tranh giành quyền lợi, nên chính người bạn thân của Vương Luân đã tiết lộ âm mưu xảo trá đó của Vương Luân. Nước Việt Nam chúng ta, dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc cả ngàn năm, nên những hủ tục này cũng dần dần tiêm nhiễm và ăn sâu trong quần chúng nhân dân. Tệ hơn nữa, một số người hành nghề mê tín dị đoan (ông đồng, bà cốt) đã kết hợp với những người cung cấp vàng mã, lợi dùng lòng tin của mọi người giả nói lời của thần thánh, vong linh, đòi phải đốt vàng mã, càng khiến cho bà con chúng ta chìm sâu vào lệ tục này.
Qua những điều chúng tôi trình bày trên đây thì bà con đã thấy rõ nguồn gốc của việc đốt vàng mã và những điều dối trá, phi lý như vậy, liệu chúng ta có còn tin được nữa hay không? Thế còn theo quan điểm của đạo Phật thì sao?

Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi, trong khoảng 49 ngày, thần thức phải đi tái sinh vào một trong sáu cõi. Ba cõi trên là cõi Trời, Người, thần Atula còn ba cõi dưới là Địa Ngục, Ngã QuỷSúc Sinh. Hai cõi Trời và thần Atula thì không dùng đến tiền bạc, vì do phúc báo nhiều nên họ nghĩ đến thứ gì liền có thứ ấy hiện ra. Hai cõi Ngã QuỷĐịa Ngục thì luôn bị hành hạ khổ sở chẳng thể ngơi để mà có thể lái xe ô tô ra ngân hàng lĩnh tiền dương gian gửi xuống được. Nếu như phải tái sinh vào loài Súc Sinh (làm con lợn chẳng hạn) thì chúng ta đốt quần áo, xe cộ, chúng ta có thấy chú lợn nào mặc áo mới cưỡi xe máy đi chơi được không? Còn nếu tái sinh làm Người thì chúng ta rõ biết chưa từng có ai nhận được thứ hàng mã mà người ta đốt cúng cho mình cả. Sự thật thì cảnh giới của mỗi loài một khác, tuỳ theo nghiệp thức biến hiện (chẳng hạn loài người thở bằng không khí, loài cá thở bằng nước, các vị trời thấy nước là Ngọc lưu ly, loài ngã quỷ thấy nước là than hồng)... Do đó chúng ta không thể lấy cảnh giới loài người mà áp đặt cho các cảnh giới khác cũng phải như vậy. Cho nên câu nói trần sao âm vậy chẳng thể đúng với lời Phật dậy. Theo trong các kinh Địa Tạng, Vu Lan, Đại Phương Tiện Phật Báo ân và kinh Bồ Tát Giới thì muốn giúp cho người đã mất được lợi ích. Những người còn sống nên làm những việc lợi ích như thiết trai cúng đường cho Tăng, cúng đường Tam Bảo, ấn tống kinh điển, bố thí cho kẻ nghèo khổ, không sát sinh mà nên mua vật về phóng sinh, tụng kinh niệm Phật, thỉnh chư Tăng thuyết Pháp Đại Thừa và các việc công đức rồi đem hồi hướng những công đức đó cho người đã mất thì chắc chắn họ sẽ được hưởng, được tiêu trừ tội chướng, được tái sinh vào cõi lành, hoặc có thể siêu sinh Tịnh độ. Còn việc đốt giấy tiền vàng mã thì không thể giúp ích gì cho thân nhân của chúng ta được. 

Bây giờ đến việc viết sớ. Việc làm này xuất phát từ việc trước kia dân chúng thưa trình lên quan hoặc đế tấu với vua thường dùng sớ dùng biểu. Rồi từ đó, chúng ta liền đem cách thức này vào trong việc tế lễ cầu cúng với Phật Thánh và cho rằng như thế mới thực là trịnh trọng kính cẩn và Phật Thánh mới chứng cho. Song sự thật có phải vậy không?

Xét kỹ ra, khi chúng ta làm việc này, thì vô tình chúng ta lại xem thường Phật Thánh rồi. Vì sao vậy? Bởi vì đã gọi là Phật, là Thánh thì các Ngài đều có sáu phép thần thông, trong đó có phép tha tâm thông (ai suy nghĩ mong cầu gì, các Ngài đều biết rõ hết) và thiên nhãn thông (thấy suốt không chướng ngại). Vậy đâu có phải đợi chúng ta viết ra lá sớ, các Ngài mới biết chúng ta kêu cầu gì. Hoặc phải khấn cho hay, cho giỏi các Ngài mới cảm thông. Thế mà chúng ta lại đua nhau đi thuê người khấn, thuê viết sớ, có khi còn bị mấy bác viết sớ Nho ép giá cao hơn sớ Quốc Ngữ nữa chứ. Đã vậy, nhỡ mà mấy bác sớ Nho chưa rành mặt chữ, lại viết chữ Tác thành chữ Tộ thì thật là oan uổng cho chúng ta làm sao? Đức Phật dạy về nhân duyên nghiệp quả, gieo thiện nhân thì được thiện quả, tạo ác nghiệp thì phải thọ ác báo. Bởi vậy nên, khi chúng ta khởi thiện tâm đi lễ Phật, là chúng ta đã được Phật chứng tâm và có phúc rồi, đâu phải cần đến tờ vàng cánh sớ.

Theo con số ước tính, những năm gần đây mỗi năm chúng ta đã đốt đi một lượng vàng mã, sớ sao trị giá hàng chục tỷ đồng. Thật đáng buồn là trong khi chúng ta mất tiền mua giấy đốt đi, thì con em chúng ta đang thiếu sách vở học hành, không những thế, việc đốt vàng mã còn gây ô nhiễm môi trường, làm xấu đi cảnh quan chốn thờ tự tôn nghiêm và có một số nơi đã gây ra hoả hoạn làm cháy cả chợ, cháy cả đền chùa.

Qua những điều trình bày trên đây, chúng ta đã thấy rõ lẽ thực hư và sự lợi hại của việc đốt vàng mã sớ sao rồi. Vậy nên chúng tôi khuyên bà con nhân dânPhật tử khi đi lễ bái đền chùa hoặc cúng giỗ tổ tiên thì cốt nhất là ở tâm thành kính và lòng tri ơn, chẳng nên hao tiền tốn của mua vàng mã sớ sao đốt đi một cách vô ích nữa. Thay vào đó, chúng ta làm những việc công ích hoặc từ thiện xã hội thì thật là phúc đức biết bao. Xin cầu chúc cho quý vị một năm mới gặp nhiều may mắn, an vui và hạnh phúc.

Lê Văn Cơ
Tạp Chí VHTT&DL Vĩnh Phúc
Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31686)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10537)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12769)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16679)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10828)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22980)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12347)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10031)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11933)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10704)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9822)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13850)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10472)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9913)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10794)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9507)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14533)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10567)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9341)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12036)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9702)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19154)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14609)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9054)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10540)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10003)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24293)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8011)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15353)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21412)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10236)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19260)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7984)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9398)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15911)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant