Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Chu kỳ tan rã thứ nhất: nhóm có liên quan với sắc uẩn

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9926)
1. Chu kỳ tan rã thứ nhất: nhóm có liên quan với sắc uẩn

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN I. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG

Tiến trình của hiện tượng chết 

1. Chu kỳ tan rã thứ nhất: nhóm có liên quan với sắc uẩn

Giai đoạn đầu tiên của tiến trình sự chết được đánh dấu bởi sự ngưng hoạt động của năm thành phầnliên quan với nhau: sắc uẩn, đại viên cảnh trí “căn bản”, địa đại, thị giác và các sắc tướng thuộc về dòng tương tục của đương sự.

Khi năm phần này cùng lúc mất đi hiệu lực của mình thì sự yếu đi của chúng được biểu lộ bằng hai loại dấu hiệu, dấu hiệu bên trong và dấu hiệu bên ngoài. Nếu chúng ta đến để phù trợ và tiễn đưa người sắp chết thì điều mà chúng ta phải nhận biết là các dấu hiệu bên ngoài, vì dấu hiệu bên trong thì chỉ có người đang trải qua tiến trình chết mới thể nghiệm được mà thôi. Nhưng biết được những dấu hiệu tuần tự bên trong này cũng không phải là dư thừa. Tuy biết như thế không giúp ích được người khác một cách trực tiếp thật đấy, nhưng đừng quên là chúng ta rồi cũng sẽ phải chết. Lúc ấy, dĩ nhiên là nếu có chuẩn bị thì khả năng nhận biết các dấu hiệu bên trong sẽ cho phép chúng ta ý thức được những gì mình đang trải qua và chủ động lợi dụng thay vì phải thụ động chịu đựng tình thế.

Sắc uẩn:

Quý vị hẳn cũng nhớ sắc uẩn có nghĩa là thân xác, nói một cách tổng quát. Tên gọi hơi phức tạp này có điểm lợi là nó nhấn mạnh đối tượng như một hợp thể kết cấu bởi nhiều thành phần. Ngoài các đường nét bên ngoài của thân hình, thân còn bao gồm tất cả các cơ quan nội tạng, bắp thịt v.v... dưới làn da, và cho dầu không thấy được nhưng những thứ này vẫn có đó. Hơn nữa, sắc uẩn còn bao gồm một hệ thống kinh mạch và các khí (hay các năng lượng, nếu quý vị thích từ này hơn) luân lưu bên trong. Đó là những yếu tố vi tế hơn các yếu tố thô vốn được gọi là “sinh lý” trong ngôn ngữ thông thường, nhưng [thật ra] chúng thuộc về sắc pháp. Ở đây, khi nói về sắc uẩn thì danh từ này chỉ hàm ý duy nhất là thân xác, tức thân thể chúng ta.

Quý vị có đồng ý không? Điều này áp dụng cho tất cả mọi người, chúng ta là người, tức là những sinh vật, có một xác thân và thịt xương tạo nên thân của chúng ta. Điều này cũng áp dụng cho thú vật nữa. Có gì khác biệt giữa thịt của một người và thịt của con vật mà ta dùng để ăn? Sự khác biệt đó là hiện thời ta vẫn còn sống. Khi chúng ta còn sống thì phần xương thịt, tức là phần chính yếu của thân chúng ta được tiêm nhiễm, được duy trì nhờ vào nhiều loại khí khác nhau. Hơn nữa, trong đó một số có công năng duy trì sự sống. Ngược lại, trong xương thịt của một xác chết thì không còn luồng khí nào hoạt động nữa. Các khí đã tan rã, biến mất. Xương thịt ấy không còn thuộc về dòng tương tục của một con người, một sinh thể nữa.

Giản dị hơn nữa, hãy tưởng tượng chúng ta bị mổ xẻ, bị lấy ra một bắp thịt hay bị cưa tay hay chân, xương và thịt. Cái đang là một phần thân thể chúng ta nay bị tách rời ra. Trong trường hợp này, các khí vi tế đang luân chuyển trước khi tay hay chân bị cưa, nay không vào trong ấy được nữa vì các kinh mạch đã bị đứt đoạn. Vì các khí không còn có mặt trong bắp thịt hay phần tay, chân đã bị cưa ấy, nên những hoạt động tâm thức nội tại của chúng ta cũng bị đình chỉ. Từ nay, chân trái [bị cưa đứt] của ta chẳng hạn, sẽ thuộc phạm vi của các hiện tượng vật chất vô tình. Nó không còn [tính chất] gì của một sinh thể hữu tình nữa. Nó không còn là bộ phận của một sinh vật nữa. Nó không còn thuộc về dòng tương tục của một con người nữa.

Đó là cách mà chúng ta có thể phân biệt giữa một sinh thể và một vô sinh thể, giữa hữu tình và vô tình. Ở đây, chúng ta định nghĩa một hiện tượng là sinh thể hay hữu tình khi các khí chống đỡ cho tâm thức còn luân lưu trong người họ. Nếu không, hiện tượng này phải được xếp vào thành phần vô tình.

chúng ta đang đề cập đến hiện tượng vật chấtTây Tạng gọi là rlung (Phạn ngữ: vayu), xin lưu ý là chưa có một sự thỏa thuận chung nào để dịch chữ này. Khi quý vị đọc chữ “khí” hay “phong” (gió) trong một tác phẩm [liên quan nào đó], thì hãy nhớ đó là chữ rlung trong tiếng Tây Tạng. Đây là một hiện tượng vật chất nên tất nhiên phải là một pháp duyên sinh được tạo tác. Đừng nghĩ rằng đó là một cái gì đặc biệt riêng rẽ. Đó là một loại hiện tượng tầm thường, do năm đại tạo nên, tức là đất, nước, lửa, gió và hư không.

Nhìn tổng quát thì sắc pháp không phải là một hiện tượng đơn thuần, hiển hiện một cách hoàn toàn thuần chất. Vả lại, chọn dùng chữ “uẩn” có mục đích vạch rõ là ta đang nói đến một hợp thể có nhiều thành phần, kết quả của năm đại liên kết với giới (Phạn: dhtu Tây Tạng: khams). Có lẽ điều này rất hiển nhiên, ai cũng biết, nhưng thỉnh thoảng cũng nên nhắc lại để mọi người ý thức được rõ ràng.

Chúng ta có thể hỏi: tại sao lại làm rắc rối vấn đề như thế, dường như chỉ vì muốn rắc rối cho vui thôi, vì dùng chữ “sắc” cũng là đủ lắm rồi. Tại sao lại dùng chữ dài dòng và tối nghĩa như sắc uẩn làm gì?

Thật ra, sắc hay sắc uẩn cũng đồng nghĩa, và ta có thể dùng chữ nào cũng được. Nhưng chữ sắc uẩn dài hơn mà đức Phật thường chọn dùng là để nhấn mạnh một sự thật, tuy hiển nhiên nhưng thường bị quên lãng.

Nếu suy nghĩ một chút thì ai cũng có thể đồng ý rằng “thân của ta”, “sắc của ta” là một hợp thể, do một số thành phần khác nhau phối hợp theo một số quy luật đặc biệt để tạo thành. Tuy nhiên, dầu đó là sự thật, nhưng những lúc bình thường không phân tích tư duy thì không biết chúng ta nhận thức thế nào mà khi nhìn hay nghĩ đến một sắc tướng thì trong trí ta lại hiện ra, không phải một hợp thể cấu tạo bằng nhiều thành phần khác nhau, mà một thực thể đơn thuần, có vẻ như do tự nó tạo lập ra, không tùy thuộc vào bất cứ gì khác!

Thật ra, để có một sắc tướng [nào đó], bắt buộc phải có một số thành phần khác biệt được sắp xếp theo một phương trình chính xác. Chỉ cần một thành phần vắng mặt là cái sắc tướng nói trên sẽ không thể hiện hữu. Đây là sự thật.

Vấn đềchúng ta không hề nhận thấy sự vật [theo cách đúng] như thế. Cái sắc tướng hiện ra trong trí chúng ta cho ta thấy đó là một thực thể độc lập [tự tồn], xuất hiện bằng chính khả năng của nó, hoàn toàn tự chủ. Nếu chỉ hiện ra trong trí chúng ta dưới dạng ấy cũng chẳng lấy gì làm nguy hại. Vấn đềchúng ta lại tin tưởng vào cái tướng bề ngoài ấy. Thế là chúng ta nắm lấy sự việc dưới khía cạnh ấy, tức là thấy chúng tự sinh ra và tự tồn tại. Nói cách khác, vì các sắc tướng hiển hiện trong tâm ta một cách tự nhiên như thể chúng không tùy thuộc vào gì khác ngoài chính mình, ta sẽ chấp lấy chúng y như thế và tin rằng đó là sự thật. Sự lầm lạc của ta nằm ngay chỗ này, một sự lầm lạc với nhiều hậu quả nặng nề vì nhận thức sai lầm ấy chính là cái gọi là chấp thật (Tây Tạng: bden par dzin pa), chấp có tự tánh [tự hữu], chấp hiện hữu độc lập (bdag dzin), và đó là căn bản, là gốc rễ của cõi Ta-bà đối với chúng ta. Nhận thức sai lầm này đã níu giữ chúng ta lại trong vòng luân hồi sinh tử giữa các thế giới hữu vi, trong đó chúng ta vẫn còn và sẽ tiếp tục chịu khổ đau.

Do đó, muốn chấm dứt vòng luân hồi sinh tử thì trước hết phải chấm dứt các vọng tưởng theo thói quen. Vì để phá bỏ những nhận thức sai lầm của ta về chính mình nên đức Phật đã chọn dùng từ ngữ như trên. Khi nói với chúng ta về sắc uẩn thay vì chỉ nói sắc hay thân mà thôi, Ngài muốn lôi kéo sự chú ý của chúng ta: Phải, sắc thân có đó, nhưng sắc này không phải là một cái gì được thành lập như quý vị vẫn nghĩ và vẫn tin tưởng. Đó là một uẩn, nghĩa là cái mà quý vị vẫn thấy dưới dạng một sắc thân chính là kết quả của một hợp thể gồm nhiều thành phần hội tụ với nhau.

Như vậy, nguồn gốc của cõi Ta-bà hay các thế giới tạo tác mà chúng ta vẫn còn đang thể nghiệm chính là nhận thức [sai lầm] của ta mà Phật giáo gọi là chấp ngã, hay chấp tuyệt đối. Đối với những ai không biết nhiều về Phật giáo, tôi thừa nhận là các khái niệm này hơi mơ hồ. Điều này cũng tự nhiên thôi. Cái mà chúng ta cần nhớ là, cách nhận thức bình thường của chúng ta làm cho ta vô tình luôn sống trong vọng tưởng, nghĩa là thấy biết các hiện tượng một cách sai lầm. Trong khi vật thể ta đang nhìn chỉ là một hiện tượng duyên sinh thì hình tướng trong trí chúng ta lại hiển hiện như một cái gì tuyệt đối, ngoài nhân duyên mà có!

Các hiện tượng có mặt thật đấy, nhưng sự có mặt của chúng cần có sự kết hợp của các nhân duyên, vì thế nên mới gọi là kết quả của duyên sinh. Nhưng ta không hề nhận biết điều này ngay, ngược lại là khác. Vì cái hình tướng trong trí ta hoàn toàn tương phản với cách phát sinh [thật sự] của vạn hữu, tất nhiên là nhận thức của ta về hình tướng này sẽ hoàn toàntính cách lừa dối.

Khi phân tích các hiện tượng, nhất là các hiện tượng thuộc sắc tướng, Phật giáo đã tìm cách đi từ bình diện thô nhất đến bình diện vi tế nhất. Đi từ các hình tướng thô (tức là có thể nhận thấy bằng mắt), Phật giáo thấy rằng các hình tướng này được kết hợp bởi các thành phần, và các thành phần này được kết hợp bởi các nguyên tử. Cứ tiếp tục phân tích thì sẽ đến các phần tử [nhỏ hơn] hay vi trần, rồi cực vi trần.

Các triết gia Phật giáo đã tranh luận nhiều về các phần tử hay vi trần này. Họ tự hỏi, các vi trần nhỏ nhất tìm ra được có phương hướng hay không, v.v... Cho dù bất đồng ý kiến trên vài điểm, nhưng họ hoàn toàn đồng ý với nhau rằng ngay cả các cực vi trần cũng do năm đại tạo thành, nghĩa là vẫn còn có thể được phân ly, chia chẻ ra.

Các triết gia Phật giáo đã lý luận như thế nào? Bằng cách phân tích, họ đi tìm vi trần nào nhỏ nhất có thể hiện hữu. Khi tìm được một cực vi trần, họ nhận ra rằng không thể tìm ra [hình thức] nhỏ hơn. Họ bèn tìm cách cô lập cực vi trần ấy rồi để nó trước mặt. Họ lặp lại thao tác ấy bốn lần nữa, cho đến khi cô lập được bốn cực vi trần khác cùng loại. Sau đó, họ sắp xếp bốn cực vi trần mới này xung quanh cái đầu tiên. Theo lý thuyết, lúc này họ có một cực vi trần ở giữa cùng với một ở hướng nam, một ở hướng đông, một ở hướng bắc và một ở hướng tây. Rồi họ sẽ đi đến kết luận nào?

Cực vi trần ở phía đông có xúc chạm với cực vi trần ở phía tây hay không? Nếu đưa ra giả thuyết rằng trong mạn đồ này, cực vi trần phía tây có thể xúc chạm với cực vi trần phía đông, và kết quả là vừa đặt cái này bên cạnh cái kia, các cực vi trần sẽ hợp nhất với nhau, thì sẽ đi đến kết luận không thể chấp nhận là không còn nhiều cực vi trần khác biệt được đặt cạnh nhau nữa, mà chỉ còn mỗi một vi trần duy nhất.

giả thuyết trên dẫn đến những ngụ ý vô lý như có đặt bao nhiêu cực vi trần bên cạnh nhau cuối cùng ta vẫn chỉ còn lại có mỗi một vi trần, nên chúng ta có thể suy luận ra rằng khi một cực vi trần được đặt gần những cực vi trần khác, chúng sẽ ở cạnh nhau riêng rẽ chứ không thể hợp làm một với nhau. Mỗi cực vi trần hiển bày nhiều phương hướng, vì thế chúng vẫn còn chia chẻ được. Cho nên, tuy là cực vi nhưng chúng vẫn là một hợp thể.

Đó là quá trình phân tích của các triết gia Phật giáo để đi đến kết luận là một cực vi trần phải là một hiện tượng duyên sinh vì nó là một phần tử hiển bày nhiều phương hướng, hay là phương phần. Để hiện hữu, nó phải tùy thuộc vào các thành phần của nó. Nhận định như thế rồi, các triết gia nói trên suy ra rằng sẽ không bao giờ tìm thấy một cực vi trần nào nhỏ đến mức không thể chia chẻ được.

Dầu sao đi nữa, họ còn nói thêm, nếu có ai nói ngược lại những suy nghiệm của họ và xác định rằng đã tìm ra một cực vi trần không thể chia chẻ được, thì cực vi trần được cho là không chia chẻ được này vẫn là một pháp duyên sinh, vì không bao giờ nó có thể là một thực thể độc lập và đứng ngoài nhân duyên. Vì sao? Vì giả định rằng đó là một cực vi trần không phương phần, nó vẫn phải cần một sự nhận thức rằng nó là một cực vi trần không phương phần và vẫn phải có một tên gọi. Vậy thì một cực vi trần không phương phần vẫn tùy thuộc vào một “năng chấp” (người nhận thức) và một cái “danh” (tên gọi).

Kết luận của những chứng minh trên là tất cả các sự vật hiện hữu nói chung, và nhất là tất cả các sắc tướng đều là có, không thể chối cãi được, nhưng lại do nhân duyên mà có. Chúng bắt buộc phải tùy thuộc vào các sự vật hiện hữu khác làm nhân hay làm duyên cho chúng, tối thiểu là vào một “năng chấp” và một cái “danh”. Tóm lại, cái gì có đều luôn luôn là duyên sinh. Điều này có thể thấy rõ hơn khi đó là một sắc pháp thô như một thân người, v.v...

Tuy nhiên, trong khi pháp duyên khởi giải thích sự thành lập của các hiện tượng như thế thì chính pháp này cũng ngụ ý tiến trình ngược lại. Khi đã có một sự xuất hiện vào một thời điểm nào đó thì phải có một sự biến mất vào một thời điểm khác. Ngay khi một số nhân duyên hội tụ vào một thời điểm để một sắc tướng thô có thể thành hình thì rất tự nhiên là sau đó chính các nhân duyên ấy sẽ phân tán, đưa đến sự tan rã, sự diệt mất của sắc tướng thô đã được thành lập nói trên.

Trở lại tiến trình chết đúng nghĩa thì giai đoạn thứ nhất gọi là chu kỳ tan rã của sắc uẩn. Nói một cách chính xác hơn là “nhóm sắc uẩn”, vì quý vị hẳn còn nhớ là có năm thành phần cùng lúc mất khả năng hoạt động.

Hãy thận trọng về ý nghĩa của từ ngữ đang dùng. Ở đây, sự “tan rã” hay “phân tán của sắc uẩn” không có nghĩa là cái uẩn nói trên, tức là sắc thân, sẽ hoàn toàn tiêu tan. Không hề có chuyện đó. Vào lúc này thì sắc thân vẫn còn đó, vẫn đang sống. Thật ra câu trên chỉ có nghĩa là chu kỳ thứ nhất của sự chết trùng hợp với sự suy nhược của các khí đã duy trì sắc thâncho phéphoạt động cho đến giờ này. Một khi các khí ấy suy suyển hay mất đi công năng thì ta nói “sắc uẩn tan rã”.

Các triệu chứng

Các triệu chứng tiêu biểu cho chu kỳ tan rã thứ nhất là gì?

Chúng ta hãy lưu tâm đến các triệu chứng bên ngoài, vì khi đến phù trợ lâm chung thì đó là những dấu hiệu mà chúng ta có thể nhận biết được.

Về mặt sinh lý, sẽ có một sự suy thoái toàn diện, nhưng đừng lẫn lộn với sự suy thoái bình thường của tuổi già. Một trong các triệu chứng là người lâm chung không còn điều khiển được tay hay chân gầy guộc của mình. Ta thấy rõ điểm này khi quan sát bàn tay họ. Người này không thể cầm nắm một vật gì nữa. Họ có thể phác một cử chỉ để lấy một cái gì đó, nhưng không nắm lấy được. Ngược lại, nếu họ có cái gì trong tay thì họ không thể buông ra được vì các ngón tay bị co quắp cứng lại.

Đại viên cảnh trí: Trí giống như mặt gương

Cụm từ phải thừa nhận là hơi tối nghĩa này chỉ cho nhãn thức. Tại sao lại so sánh nhãn thức với một tấm gương? Bất cứ vật gì cũng được phản chiếu khi đặt trước một tấm gương. Cũng thế, trong suốt cuộc đời ta, dĩ nhiên với điều kiện là mắt và thị giác của ta hoàn hảo, thì chúng giữ vai trò tấm gương cho ta, vì chúng phản chiếu tất cả những hình tướng khác nhau trong tầm mắt để ta có thể nhận biết được.

Trong chu kỳ tan rã thứ nhất, cái khí sở y cho thị giác suy yếu rồi nên mắt bị lòa đi, cái thấy lu mờ đi. Tấm gương không còn làm tròn chức vụ của nó. Sự phản chiếu sáng rõ qua một tấm gương lành lặn trong sáng không còn nữa. Nhãn thức mất đi khả năng nhận biết qua cái thấy, vì cái khí chống đỡ cho nó đã bị suy suyển.

Qua tiến trình của hiện tượng xuất sinhchúng ta đã nói lược qua, chúng ta biết sau năm loại khí chính căn bản, mỗi tháng có một loại khí phụ xuất hiện, và mỗi loại khí này sẽ giúp cho một loại quan năng hoạt động, trong đó có một loại khí phụ có công năng giúp cho mắt thấy được. Khi khí này mất đi hiệu lực thì nhãn thức y cứ vào nó cũng không thể tiếp tục [tồn tại] nữa.

Giữa chúng ta đây, có rất nhiều người làm việc trong các cơ quan y tế, và qua nghề nghiệp của mình thường tiếp xúc với những người ở đoạn cuối của cuộc đời. Tôi tin chắc rằng họ đã nhận thấy những loại triệu chứng này rất thường xuyên. Hơn nữa, tất cả những ai đã từng ở bên tử sàng của một người lâm chung đều có thể ghi nhận rằng bắt đầu từ một lúc nào đó, người lâm chung mất đi khả năng thấy. Điều này không có nghĩa là họ không thấy gì nữa cả, chúng ta chưa nói đến giai đoạn này, nhưng mắt họ lòa đi. Khi ta chỉ cho họ một vật gì thì họ không phân biệt vật ấy nữa, và nếu họ thử gọi tên vật ấy, họ thường gọi sai. Họ lẫn lộn vì dường như đối với họ, mọi sự trở nên càng lúc càng lờ mờ, không rõ nữa.

Như thế có phải chăng là vào lúc này ai cũng có khuynh hướng nhắm kín mắt lại? Không. Một số người có thể có phản ứng đó, nhưng ngược lại rất nhiều người lại mở căng mắt ra nhìn chòng chọc. Nhưng ví như ta quơ tay trước mắt họ, họ cũng sẽ không còn phản ứng vì không phân biệt được gì nhiều nữa. Trong họ, đại viên cảnh trí [căn bản] đã mất hiệu lực rồi.

Địa đại

Đồng thời với sắc uẩnđại viên cảnh trí, địa đại cũng tan rã trong chu kỳ thứ nhất, làm cho nhiều tác dụng phát sinh. Thân của người lâm chung trở nên mềm rũ, vô lực và tay chân yếu ớt. Họ không cử động chân tay được nữa.

Sự tan rã của địa đại làm cho họ có cảm giác bị lún xuống đất, đó là một dấu hiệu ta không thấy được từ bên ngoài, nhưng vì lý do ấy mà nhiều người lâm chung thường xin được nâng lên trên gối.

Một lần nữa, xin đừng hiểu lầm. Dầu ta dùng chữ “địa đại tan rã”, nhưng không có nghĩa là địa đại hoàn toàn bị hủy diệt hoặc bay biến đi mất. Như trước kia, điều xảy ra là cái khí chống đỡ loại đại này đã quá yếu để làm tròn chức vụ của mình. Nói tan rã, có nghĩa là cái khí sở y của địa đại trong suốt cả một đời nay đã hư hoại rất nhiều. Một vài chuyên luận nói là địa đại tan rã trong thủy đại. Nhưng đừng tưởng tượng là địa đại sẽ hòa tan trong thủy đại. Quý vị cần nhớ rằng “địa đại tan rã” chỉ có nghĩa là cái khí chống đỡ cho địa đại đã suy suyển đi và đã ngừng hoạt động.

Thị giác

Trong suốt cuộc đời, nhờ thị giác mà ta thấy và ý thức được các sự vật. Nay trong chu kỳ tan rã thứ nhất, người lâm chung không thể mở hay nhắm mắt theo ý mình. Họ không còn điều khiển được mí mắt.

Sắc tướng trong dòng tương tục

Sắc tướng bên ngoài của người lâm chung cũng “tan rã”, nghĩa là cũng mất đi khả năng tự duy trìhoạt động của mình. Dấu hiệu thấy được từ bên ngoài là màu da người sắp chết biến đổi, mất đi vẻ tươi nhuận mà trở nên tái nhợt dần như xác chết. Rõ ràng là họ không còn sức lực nữa. Tuy nhiên, trừ một vài trường hợp đặc biệt, [thường thì lúc này] người sắp chết vẫn còn đủ sức nghe và hiểu.

Tóm lại, chu kỳ thứ nhất của sự chết bao gồm sự tan rã các thành phần liên quan đến sắc uẩn. Trong giai đoạn này, sắc uẩn, đại viên cảnh trí, địa đại, thị giác và các sắc tướng thuộc dòng tương tục của đương sự đều đồng thời tan rã. Khi liệt kê, ta bắt buộc phải nói từ điểm này sang điểm khác, nhưng trong thực tế thì cả năm thành phần nói trên đều cùng lúc mất hiệu lực.

Triệu chứng bên trong:

Chúng ta đã nói đến năm triệu chứng bên ngoài mà người ngoại cuộc có thể nhìn thấy. Những gì không thấy được từ bên ngoài mà người lâm chung cảm nhận được là triệu chứng bên trong. Trong chu kỳ thứ nhất này, người lâm chung có những ảo tượng, đây không phải là những gì thấy được qua cảm quan, qua con mắt, mà là một sự cảm nhận nội tại.

Những gì người lâm chung cảm nhận có thể so sánh với điều chúng ta thấy khi đứng giữa một bãi cát [mênh mông] hay trên một con đường tráng nhựa khi trời rất nóng. Do nhiệt độ cao và ánh phản xạ của mặt trời, đôi khi ta có ảo giác thấy nước ở đằng xa, nhưng sự thật thì không có.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15582)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23037)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14061)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12987)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55119)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9177)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14449)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14169)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14212)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36329)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19892)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18180)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19227)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19165)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20293)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17643)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31539)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15945)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15025)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46182)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35948)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21616)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23409)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34390)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19494)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18952)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20197)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18375)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19846)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19537)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33431)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34495)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54531)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37737)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21141)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17892)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63658)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17392)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49666)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27480)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20279)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23048)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18895)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16328)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17925)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20942)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17372)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14477)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16868)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16378)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16000)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17483)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21988)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15111)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13510)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14377)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15411)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15001)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12706)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13353)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27401)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12520)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13200)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14493)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12413)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15426)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12872)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12209)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13204)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21661)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11286)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22741)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15088)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14953)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46198)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22472)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14590)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12626)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18916)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14744)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43874)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56981)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13848)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47508)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13662)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29018)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33324)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38397)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15411)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31243)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12536)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40397)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43429)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46671)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant