Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dẫn Nhập

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9676)
Dẫn Nhập

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

DẪN NHẬP

Trước hết, theo truyền thống Tây Tạng, và nhân danh tất cả những người đồng hương của tôi, có mặt hay vắng mặt, và nói chung là nhân danh tất cả Phật tử, xin cho tôi nói câu “Tashi délég”, nghĩa là “chào mừng quý vị”!

Tôi vô cùng hạnh phúc có được dịp này để gặp quý vị, vì tôi nghĩ rằng sự gặp gỡ này cũng là một cơ hội để chúng ta trao đổi với nhau. Chúng ta rất đông, ai cũng phải mất công sức đến nơi này, và tôi cũng biết rằng có nhiều người đã phải đi xa, rất xa nữa là khác, không những từ nhiều tỉnh khác của nước Pháp mà còn từ nhiều quốc gia khác nữa. Giữa chúng ta đây còn có những người đặc biệt đến từ Á châu để tham dự cuộc hội thảo này. Tôi cảm ơn tất cả quý vị đã bỏ công sức đến đây, vì điều đó tỏ rõ sự lưu tâm của quý vị đối với đề tài mà chúng ta sắp bàn thảo.

Chúng ta không có nhiều thời gian với nhau, vì thế hãy tận dụng tối đa những giây phút này. Làm thế nào để cuộc họp mặt hôm nay có ý nghĩa nhất? Nếu chỉ đơn giản là một người diễn thuyết trên bục và vài ba người khác cố sức dịch ra các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Anh (và từ năm 2007 là cả tiếng Việt nữa), rồi những người còn lại không làm gì khác hơn là lắng nghe, thì dĩ nhiên cũng có lợi, nhưng sự lợi ích đó chẳng được là bao.

Chúng ta là một hội chúng khá đông và xuất thân từ những nền văn hóa, những môi trường khác nhau. Như tôi đã nói, chúng ta đến từ nhiều quốc gia, nhưng không chỉ có thế, trong Pháp hội này còn có rất nhiều quan điểm dị biệt, đến từ những truyền thống bất đồng, bất luận là xét về mặt tôn giáo, tâm linh hay triết lý. Vì chủ đề chúng ta sắp bàn thảo đây thật sự vô cùng quan trọng nên hầu như chắc chắnmọi người đều đã suy nghĩ trước hoặc tự mình có một ý kiến riêng về vấn đề này. Nếu chúng ta có thể đối chiếu quan điểm với nhau thì thật lý tưởng. Riêng phần tôi, dĩ nhiên tôi sẽ cố gắng trình bày kiến giải của Phật giáo, và sau đó [mỗi người] chúng ta nên so sánh quan điểm của mình với các quan điểm khác về cùng đề tài này. Tôi tin rằng, như thế mỗi người chúng ta đều sẽ gặt hái được rất nhiều lợi lạc.

Chủ đề chúng ta lựa chọn để cùng nhau đào sâu là [những vấn đề] xoay quanh sự chết. Đối với [sự chết của] người khác, ta phải làm thế nào để đưa tiễn những người ở giai đoạn cuối của cuộc đời, và phải làm thế nào để giúp đỡ những người đã quá cố nếu cần; đối với bản thân, ta phải làm thế nào để chuẩn bị cho cái chết của chính mình, và làm sao để đối mặt với nó.

Chính vì tính cách phổ quát của sự chết nên trên tất cả mọi đại lục, ở tất cả mọi thời đại, chắc chắn là tất cả mọi người đều đã từng lưu tâm suy nghĩ về vấn đề này và cũng đã thử tìm đủ mọi cách để cho cái kinh nghiệm không thể tránh khỏi ấy được dễ dàng hơn, an bình hơn. Mặt khác, ở Pháp và nói chung là ở các nước Âu châu, hiện nay người ta không còn hay đã bớt đi nhiều sự húy kỵ khi nói về sự chết, cho dù trong hàng chục năm qua “chết” là một chữ không được nhắc đến, là một vấn đề không được gợi lên.

Tôi còn nhớ, lúc tôi mới qua Pháp vào thập niên 60, nói đến cái chết là một điều bất lịch sự, và nhất là không ai được dùng một từ ngữ sống sượng như thế. Đề tài ấy không đem lại chút hứng thú nào cho bất cứ ai. Nói chung, người tao nhã không được bàn luận về đề tài ấy.

Từ một vài năm trở lại đây, tình hình đã ngày càng thay đổi. Người ta đã tiến bộ nhiều, đã dám đề cập một cách trực tiếp và thẳng thắn đến đề tài vô cùng quan trọng này. Người ta đã nghiên cứu tìm tòi, đã hoàn chỉnh nhiều phương pháp để an ủi, giúp đỡ phần nào, không chỉ những người sắp chết mà còn cả thân nhân và những người chăm sóc bệnh nhân nữa. Những hội đoàn, Bi mẫn đường đã bắt đầu xuất hiện khắp nơi, thật là một điều đáng mừng!

Như tôi vừa nói, chúng ta đến đây rất đông, và chắc chắn ai cũng từng suy nghĩ đến cái chết, kết quả là ai cũng từng khởi thảo nhiều kế hoạch khác nhau. Để có thể xác định rõ vấn đề này thì lý tưởng nhất là mỗi người chúng ta ai cũng phải có dịp trình bày những phương pháptruyền thống hay nghề nghiệp của mình đã đề xướng. Từ nay, vì chúng ta có quyền chọn lựa giữa rất nhiều phương pháp khác nhau và có thể sử dụng đến khi cần, chúng ta nên chọn lựa theo hai tiêu chuẩn: phương pháp nào dễ áp dụng nhất và phương pháp nào hữu hiệu nhất.

Tại sao chúng tôi, với tư cách của một Phật học viện, lại tổ chức một buổi hội thảo về sự chết và phương pháp giúp đỡ người lâm chung cũng như người quá cố? Đó là vì trong khoảng một vài thập niên trước thì một đề tài như hôm nay không hề thu hút người đến tham dự, nhưng trái lại hiện nay đây là một vấn đề thời sự. Người không chuyên môn thì trực tiếp quan tâm đến đề tài này nhiều hơn vì chính bản thân mình, còn ở các nước công nghiệp cao, những hội đoàn y tế và cận y tế hiện đang gia tăng nghiên cứu để cải thiện tình trạng của bệnh nhân lúc cuối đời và những người quanh họ. Là một tăng sĩ Phật giáo, từ lâu tôi đã biết rằng truyền thống đạo Phật luôn đặt trọng tâm giáo pháp trên vấn đề chính yếu này, tức là sự chết. Và vì Phật giáo đã nghiên cứu suốt từ nhiều thế kỷ qua, nên nhất định là đã khám phá một số phương phápkhai quang những con đường mới [trong lãnh vực này]. Chúng ta có thể nói rằng, trên phương diện này thì Phật giáo tỏ ra rất phong phúchi tiết.

nhận thấy rằng ở các nước Âu châu sự quan tâm đã gia tăng rõ rệt và rất nhiều người thành tâm đã hết sức cố gắng để tạo những điều kiện tốt đẹp nhất cho người lâm chung, nên tôi nghĩ rằng một Phật tử như tôi hẳn phải có bổn phận chia sẻ và đề nghị với những ai ưa thích, trình bày cho họ biết những gì Phật giáo đã khám phá và hoàn chỉnh trong suốt những thế kỷ qua. Sau đó, mỗi người sẽ tự nhận định về những gì họ có thể tiếp nhận hay không thể tiếp nhận từ những kinh nghiệm của Phật giáo.

Việc trao chiếc chìa khóa để mở vào kho tàng kinh nghiệm Phật giáo không có nghĩa là bắt buộc mọi người phải gia nhập và ai cũng muốn áp dụng. Không! Ai cũng có quyền tự do của mình, và hơn thế nữa, ai cũng có bổn phận phải gạn lọc và tự quyết định cho chính mình những gì nên giữ lại hay áp dụng khi cần đến. Nhưng dầu sao đi nữa, theo quan điểm Phật giáo, khi ta có trong tay chừng ấy giáo pháp do chính đức Phật ban truyền, có chừng ấy tài liệu để suy gẫm mà lại chỉ giữ riêng cho mình, không đem ra giới thiệu cho người khác biết để có thể tùy ý sử dụng, trong khi biết rõ rằng những người này cũng muốn tìm hiểu thì thật là sai trái, thật là bất thường. Vì thế mà chúng tôi tổ chức các buổi hội thảo này.

Còn một lý do khác là tôi muốn giới thiệu toàn bộ những hiểu biếtkinh nghiệmPhật giáo đã đạt được về sự chết. Thật thế, từ bao nhiêu năm sống ở Pháp và đi qua gần như khắp cả địa cầu, tôi thường nghe nói về Phật giáo trên các đài truyền thanh, truyền hình, trong những câu chuyện, chưa kể trên báo chí hay trong những chuyên luận ngắn, phải nói rằng có một điều xảy ra quá thường xuyên khiến tôi phải lưu tâm. Chỉ cần đề cập tới đề tài sự chết trong Phật giáo, lập tức sẽ có một câu bình luận được thốt lên ngay: “Phải rồi, Phật tử họ có những quyển sách như Bardo Thődol” hay đúng hơn là “họ có cuốn Bardo Thődol”. Nghĩa là, ta có cảm tưởng như Phật giáo chỉ có chừng đó mà thôi!

Sự thật không phải vậy. Đúng là có một quyển sách mang tên Bardo Thődol, người ta thường dịch là “Tử thư Tây Tạng”. Nhưng chắc chắn đó không phải là bộ luận duy nhất về chủ đề sự chết trong Phật giáo. Ngược lại là khác! Thật ra, đề tài về sự chết đã được đề cập một cách vô cùng phong phú, trước hết bởi chính đức Phật trong các kinh điển hiển giáomật giáo. Những gì Phật giáo có thể bàn thảo về sự chết đã đi rất xa khỏi tầm nghiên cứu của cuốn Tử Thư Tây Tạng. Vả lại, cuốn sách này thuộc về văn chương dân gian thì đúng hơn. Cũng vì thế mà tôi thấy việc tổ chức các buổi hội thảo như hôm nay rất ích lợi, để có thể trình bày rõ ràng hơn quy mô của chủ đề này trong giáo lý đạo Phật. Chính tôi cũng nhận thức rõ điều ấy hơn từ khi sống xa Tây Tạng.

Để xác định mục tiêu, tôi ước mong rằng chúng ta có thể thu thập một số các phương thức mà ai cũng có thể dùng đến lúc cần, dù chúng ta là ai hay theo tôn giáo nào đi nữa. Nói cách khác, vấn đề là làm sao có được hàng loạt đủ loại pháp môn để giúp cho tất cả mọi người, bất kể quan điểm, có thể xử sự một cách có lợi và hữu hiệu đối với bất kỳ một người nào đang trong những giây phút sắp lìa bỏ cuộc đời.

Với lòng tha thiết muốn chia sẻ như thế, về phần mình tôi chỉ có thể trình bày quan điểm của Phật giáo, nhưng để tránh mọi hiểu lầm, tôi muốn nhấn mạnh rằng theo ý tôi thì đây chỉ là một trong nhiều kiến giải khác, trong rất nhiều kiến giải khác. Tôi không hề có chủ định gợi ý rằng chỉ có kiến giải do tôi trình bày mới là chân lý.

Thật ra, trong những pháp môn mà tôi sẽ đề cập, có một số sẽ làm cho quý vị ưa thíchlưu tâm đến mức muốn áp dụng chúng. Nhưng cũng có thể sẽ có những điểm mà quý vị không chút tán thành, hoặc đôi khi nghi ngờ, hoặc hoàn toàn phản đối. Điều này hết sức tự nhiên. Chúng ta ai cũng có lập trường khác nhau và mỗi người có một lối nhìn khác biệt là điều bình thường. Tóm lại, tôi không có chủ ý thuyết phục ai điều gì cả mà chỉ muốn đưa ra một vài góc cạnh khác nhau để nhìn sự việc. Sau đó, chính quý vị phải suy nghĩ, gạn lọc và rút tỉa ra những gì quý vị cần, hoặc cũng có thể [thấy là] không có gì cần đến cả.

Đề tài của chúng ta, như quý vị đã biết, liên quan tới sự giúp đỡ mà chúng ta có thể tìm cách mang lại cho những chúng sinhgiai đoạn cuối của cuộc đời, cũng như cho những ai đã qua đời rồi.

[Sự giúp đỡ người lâm chung, hay có thể gọi là] “phù trợ người lâm chung”. Chữ lâm chung ở đây [trước hết] phải hiểu là nói đến loài người, vì chính chúng ta cũng là con người, nhưng theo nghĩa rộng, hai chữ này có thể bao hàm toàn thể chúng sinh. Hai chữ này cũng chỉ cho loài vật, bởi vì chúng cũng như ta, cuối cùng đều phải chết, và nếu quanh ta có nuôi thú vật thì ta nên giúp đỡ chúng, có mặt bên cạnh chúng vào lúc chúng trải qua sự thử thách mà đối với chúng cũng không kém phần khó khăn và tế nhị. Sự thật thì Phật giáo cũng chú ý đến những loài hữu tình khác nữa, nhưng vì những loài này nằm ngoài khả năng nhận biết của chúng ta, hiện nay ta chưa có thể cứu giúp họ một cách trực tiếp được, dù ta có mong muốn giúp đỡ họ bằng cách này hay cách khác.

Tại sao lại chọn một đề tài như thế? Vì đề tài này quan hệ đến tất cả chúng ta. Tất cả, vì chúng ta đều thuộc loài hữu tình. Nếu ta có thể khẳng định một điều, thì điều đó là “có một ngày chúng ta sẽ chết”. Đã có một ngày ta sinh ra; mà đã sinh ra là ngụ ý sẽ có một ngày diệt mất. Hễ có sinh tất phải có diệt, diệt tức là điều mà chúng ta gọi là sự chết. Trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh được một lúc nào đó sẽ đứng ở đầu giường của một người đang phải tiếp cận với kinh nghiệm ấy trước ta, cho tới khi đến lượt chính mình. Điều đó, chúng ta đều biết. Với thời gian, chúng ta không thể tránh khỏi cái chết.

Theo chúng tôi, tức là theo Phật giáo, vì chắc chắn chúng ta sẽ chết nên chi bằng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật, vì đó là thời khắc trọng yếu nhất của một đời người. Lý tưởng nhất là chúng ta [đã có sự] chuẩn bị cẩn thận và kịp thời để có thể chết một cách hạnh phúc và đi từ niềm hạnh phúc này đến một hạnh phúc khác lớn hơn. Nếu chúng ta không thành công trong việc chuẩn bị cái chết của mình đến trình độ ấy, thì cũng rất nên làm sao giữ lòng hoàn toàn thanh thản và chết một cách an bình. Chắc chắn mọi người đều phải công nhận rằng bất kỳ ai cũng nên làm thế nào đó để giữ được tâm thanh thản trong những giây phút cuối cùng của đời mình.

Mặt khác, vì chúng ta đang sống, hẳn là chúng ta đều muốn cảm nhận hạnh phúc trong suốt cả cuộc đời. Đó là một nguyện vọng bình thườngchính đáng. Thậm chí ta có thể nói rằng đó là một quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi loài, vì điều ấy không chỉ liên quan đến loài người: Bất cứ loài hữu tình nào cũng có cảm giác, cho nên họ chỉ có thể khao khát được cảm giác an lạc, cảm nhận hạnh phúc. Bởi vì đó là một nhu cầu mà họ cảm thấy, cho nên đó cũng là quyền lợi của họ.

Nếu theo tự nhiênbản năngchúng ta muốn có được một đời hạnh phúc, thì hạnh phúc đó phải bao gồm suốt cả cuộc đời, kể cả những giây phút cuối cùng. Điều đó có nghĩa là ta không nên chỉ mong cầu hạnh phúc lúc còn khoẻ mạnh, trẻ tuổi mà thôi, mà phải có nhiều kỳ vọng hơn thế, tức là phải mong muốn được hoàn toàn hạnh phúc ngay cả khi cái chết đã gần kề hay vào lúc đang chết. Hơn nữa, nếu chúng ta chấp nhận rằng sau khi chết vẫn còn có điều gì đó xảy ra, nghĩa là sau cuộc sống này vẫn còn những cuộc sống khác, thì nhu cầu và quyền được hạnh phúc nói trên là hoàn toàngiá trị. Về việc sau cái chết còn gì khác xảy ra hay không thì ý kiến của chúng ta có thể bất đồng; có người quan niệm rằng có một cái gì sau đó, có thể dưới dạng tái sinh; người khác sẽ tuyên bố rằng chúng ta chỉ có vỏn vẹn một cuộc sống duy nhất này mà thôi... Tuy nhiên có một điểm mà chúng ta nhất định sẽ đồng ý với nhau. Đó là, đã [chắc chắn phải chết] thì chi bằng chúng ta có được hạnh phúc từ điểm đầu cho đến điểm cuối của cuộc đời, kể cả lúc hấp hối.

Bạn có thể phản bác rằng có một điều tốt hơn nữa, lý tưởng nhất là làm sao sống mãi và sống hạnh phúc, nghĩa là không bao giờ chết. Nhưng điều này có thực tế không? Đó là một điều có vẻ khó thực hiện, hay nói thẳng ra là không thể thực hiện. Nhưng hãy mơ mộng một vài giây. Hãy tưởng tượng rằng hiện tượng chết đã được xóa bỏ vĩnh viễn. Nếu loài người thành công trong việc chiến thắng cái chết để trở thành bất tử thì chúng ta có thể hy vọng là họ cũng đạt được những khám phá khác để chống lại bệnh tật và tuổi già.

Nhưng điều này chưa xảy ra, chưa phải là hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, nghĩa là chúng ta vẫn còn phải đương đầu với cái chết. Đó là một sự kiện chắc chắn, hiển nhiên. Mặt khác, như chúng ta vừa thấy đó, ta mong cầu hạnh phúc, mong cầu tránh khỏi mọi khổ đau trong mọi trường hợp, dù thức hay ngủ. Bởi vì khoảng thời gian hiện hữu của chúng ta bao gồm mọi giây phút của cuộc sống và những giây phút cuối cùng lại đặc biệt tế nhị, chúng ta cần chuẩn bị trước sao cho vào lúc ấy, quý nhất là ta có thể hạnh phúc, nếu không thì tối thiểu cũng phải được thanh thản và thư giãn. Được như thế thì thật tốt, vì nguyện vọng của chúng ta đã được thực hiện cho đến giây phút cuối cùng.

Đồng ý là những giây phút này rất ngắn ngủi, nhưng đối với người đang buớc qua cửa tử, việc chết một cách an bình không phải là không quan trọng. Dẫu cho những giây phút ấy có vẻ ngắn ngủi, nhưng đừng quên rằng ý niệm thời gian là một điều rất chủ quan. Cho dù có quan niệm rằng chết là hết, nhưng nếu trong khoảng thời gian ấy đương sự sống được một cách trọn vẹnthư thái thì đã là rất tốt cho họ, huống chi nếu sau đó họ còn phải tái sinh vào một kiếp sống mới.

Trên một khía cạnh khác, đa số người ta khi chết đi để lại sau lưng những người thân, bà con họ hàng hay bạn bè, và những người này đều buồn khổ vì sự ra đi của họ. Nỗi buồn khổ ấy sẽ không bao giờ nguôi ngoai hoàn toàn, nhưng nếu người chết đã ra đi trong những điều kiện tốt đẹp nhất, nếu hiển nhiên người ấy đã có chuẩn bị trước, đã chấp nhận cảnh ngộ của mình và chết một cách an bình, thì dẫu có xúc động, những người thân của họ có thể tìm được nguồn an ủi khi nhớ lại rằng người mình thương yêu đã chết một cách an tĩnh, nhẹ nhàng.

Đó là một sự an ủi lớn cho họ. Chỉ cần riêng lý do đó thôi, dù chúng ta không thấy cần thiết cho chính mình thì đối với người thân dường như ta cũng có bổn phận phải chuẩn bị cái chết của chính mình sao cho những người ở lại được bớt phần đau khổ.

Có thể chúng ta đã từng chứng kiến hoặc nghe kể lại, đáng tiếc là những giai đoạn cuối của cuộc đời không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng và an bình; có những lúc giai đoạn này rất khó nhọc vì người chết đã ra đi trong cơn đau đớn thể chất, hay tệ hơn nữa là đau đớn tinh thần kịch liệt. Chết như thế thật là khủng khiếp cho đương sự, mà cũng không dễ dàng cho những người ở lại. Họ đã đau khổ vì mất đi một người thương yêu, mà thật lâu sau đó hoặc cũng có thể là suốt quãng đời còn lại, lại còn bị giày vò bởi những kỷ niệm tàn bạo ấy. Kỷ niệm ấy sẽ đào sâu thêm nỗi đau khổ trong lòng họ và khơi dậy một niềm hối tiếc, một cảm giác bất lực khó chế ngự được.

Chúng ta hãy tưởng tượng một người trẻ tuổi bị mất cha mẹ, mà còn mất trong những điều kiện rất bi thảm, nghĩa là cha mẹ đã chết một cách đau đớn. Khi lớn lên, đừng tưởng người này sẽ dễ dàng tìm được một sự nguôi ngoai. Với thời gian, người ấy sẽ lãng quên đi phần nào – điều này tự nhiên thôi – nhưng sẽ vẫn còn bị chấn thương tâm thần. Chỉ cần một chút xíu [khêu gợi] là người này sẽ sống lại kỷ niệm ấy trong tất cả nỗi kinh hoàng của nó, nếu không thì họ cũng có thể bị tiêu mòn dần mà không biết, và bị hỏng cả một đời.

Thế nhưng, như chúng ta đã nói, ai cũng muốn có cảm giác an vui, vì vậy tốt nhất là nên tìm đủ mọi cách để tránh né những khó khăn có thể xảy đến, đặc biệt là các trường hợp như đã nói trên. Do đó, việc suy ngẫm về cái chết và lo chuẩn bị trước để giúp đỡ người khác cũng như tăng cường sức mạnh cho chính mình là một việc làm có ích nếu không nói là cần thiết.

Như vậy, dẫu chúng ta có cho rằng chết là hết thì chết một cách an bình vẫn hơn, mà nếu chết được trong hạnh phúc thì càng tốt. Huống chi, nếu chúng ta tin vào sự tái sinh thì điều này càng trở nên tuyệt đối cần thiết.

Khi lìa bỏ cuộc đời này, nếu ta hướng đến một cuộc sống mới nhưng hãy còn thuộc về cõi Ta-bà thì nguyện vọng được hạnh phúc suốt đời sẽ không chỉ có hiệu lực cho cuộc sống hiện tại mà còn cho cả đời sau và tất cả các đời sau đó nữa. Nếu chúng ta còn phải tái sinh trong cõi Ta-bà thì tốt nhất là nên tái sinh trong những điều kiện kha khá, đủ để bảo đảm một cuộc sống hạnh phúc tối thiểu.

Tuy nhiên, có người cho rằng vì một hạnh phúc như thế mà cứ phải cố gắng duy trì và kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác thì thật là bấp bênh và thăng giáng thất thường. Họ nhắm đến một trình độ cao hơn, an toàn hơn: ai thoát ly được cảnh giới Ta-bà sẽ không bao giờ còn phải lo sợ bất cứ một nỗi đau khổ nào nữa, vì đã đạt được một nguồn hạnh phúc cao siêu hơn, và hạnh phúc này có đặc tính là không bao giờ suy suyển.

Có người còn đi xa hơn nữa. Họ nhận thấy rằng đối với họ tránh khổ được vui là điều quan trọng, thì tốt hơn hết là không nên chỉ lo cho chính mình mà còn phải lo cho tất cả mọi loài. Họ nghĩ rằng: “Người khác cũng có cùng một nhu cầu, cùng một xu hướng như ta. Và trên nhiều phương diện, họ còn là người thân của ta nữa. Phải rồi, ta nên cố gắng đạt hạnh phúc và thoát khổ đau, nhưng không phải chỉ cho riêng ta mà còn cho tất cả chúng sinh. Muốn thế, ta phải đạt đến một trình độ đủ cao để có thể giúp đỡ muôn loài một cách hữu hiệu.”

Như thế, đi tìm hạnh phúc có thể được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Nhưng dù quan niệm nào đi nữa thì thành tựu hạnh phúc vẫn có nghĩa là lúc lìa đời người ta phải thanh thảnan bình.

Theo dự kiến thì chúng ta quy tụ về đây trong hai ngày, với mục đích chính thức là chỉ nói về cái chết và tiến trình của nó – trước, trong và sau khi chết. Đây không phải là một trong những đề tài thú vị nhất mà ta có thể bàn đến. Nó không thể mua vui hay làm trò tiêu khiển cho chúng ta. Thế mà chúng ta vừa nhắc đi nhắc lại là mình mong muốn hạnh phúc! Chọn một đề tài như thế có thể bị xem là quái dị. Thật ra, đây chỉ [là một đề tài] thực tế, không hơn không kém. Vì dù sao đi nữa, nếu có một điều mà chúng ta có thể tin chắc thì đó chính là “chúng ta đều sẽ chết”. Chính vì theo lẽ tất nhiên chúng ta đều sẽ chết nên hợp lý nhất là chúng ta nên suy nghĩ đến [cái chết] để tự chuẩn bị với tất cả khả năng của mình. Điều này áp dụng cho tất cả mọi người. Dù chúng ta theo chủ nghĩa vô thần hay có một tín ngưỡng, bất cứ tín ngưỡng nào, chúng ta vẫn nên nghĩ đến cái chung cuộc bất khả kháng ấy.

Mà điều ấy thật sự có ích lợi hay không? Chúng ta thật sự có khả năng để chuẩn bị cho cái chết của mình được bình an thanh thản không? Có. Chúng ta có thể làm được. Và chắc chắn đó không phải là một quan điểm riêng của Phật tử, cũng không chỉ có Phật tử mới được quyền làm điều ấy. Vì chúng ta không chỉ là một sinh vật mà còn là một sinh vật có lý trí, cho nên, vượt ra ngoài các phạm trù tư tưởng hay tôn giáo, tất nhiên là chúng tađủ khả năng cần thiết để chuẩn bị ra đi trong những điều kiện tốt đẹp.

Vấn đề này quan trọng và phổ quát đến nỗi tất cả các nền văn hóatruyền thốngtôn giáotriết học – đều không thể không nghĩ đến. Vì thế, trên toàn thế giới có rất nhiều phương thức đã được đề nghị để đối phó với cái chết, cái chết của chính mình và của người khác. Chúng ta chỉ cần lấy đó mà dùng. Muốn thế, chúng ta cần sưu tầm càng nhiều dữ liệu càng tốt, và sau đó phán định xem phương thức nào hữu hiệu nhất. Theo tôi nghĩ, lý tưởng nhất là làm sao tìm biết tối đa các phương thức từ các truyền thống khác nhau.

Nhưng có phải vì thế mà chúng ta cần áp dụng tất cả cho chính bản thân mình? Không. Trước hết, không thể làm được vì có quá nhiều phương thức. Thứ hai, vì có những phương thức đối với người này có thể là tuyệt hảo nhưng đối với người khác lại hoàn toàn không thích hợp. Đó chính là sự hữu ích, nói đúng hơn là sự cần thiết của sự đa dạng. Nhờ thế mà chúng ta có thể tùy trường hợp để áp dụng. Do đó, chúng ta phải tuyển chọn những gì thích hợp nhất với mình, tùy theo tính tình, tín ngưỡng và khả năng của riêng ta. Phân biệt được những gì trực tiếp hữu ích cho mình là điều rất đáng quý, nhưng ngoài sự áp dụng cho chính mình ra, có lúc chúng ta sẽ phải ngồi bên giường hấp hối của một người mà ta muốn giúp đỡ. Có thể người ấy rất khác với chúng ta trên phương diện tính tình, quan niệm hay tín ngưỡng. Đó là lý do tại sao chúng ta nên tìm biết càng nhiều càng tốt, vì nếu phương pháp này không trực tiếp ích lợi cho ta, nó lại có thể hoàn toàn thích hợp với người mà ta muốn giúp, và trong trường hợp đó ta nên dùng đến nó.

Để cho rõ ràng hơn, chúng ta hãy lấy một thí dụ. Hãy tưởng tượng anh A đến phù trợ anh B đang ở thời kỳ cuối của cuộc đời. Vì chúng ta ở Âu châu nên hãy tạm cho rằng anh A theo đạo Thiên Chúa – điều này rất có thể xảy ra vì ở đây đa số theo đạo Thiên Chúa. Nhưng ngược lại, có thể anh B lại là Phật tử. Nếu anh A đến để xoa dịu và trấn an anh B mà chẳng đoái hoài gì đến tôn giáo của anh B, lại chỉ sử dụng ngôn ngữ Thiên Chúa để nói chuyện với anh Phật tử B đang hấp hối thì e rằng anh B sẽ không nghe và không hiểu anh A. Anh A sẽ có nguy cơ thốt ra những lời rất khác biệt, hoặc trái ngược với tín ngưỡng của anh B. Thế mà, trong giây phút cuối cùng rất tế nhị, nếu ta nói những lời không phù hợp với lòng tin của người hấp hối, nói những lời thiếu hiểu biết hay trái ngược với lòng tin này, thì thay vì giúp đỡ họ, ta có thể làm cho họ bất an hơn. Trong khi họ đang đi vào cõi chết mà ta còn nói với họ những lời họ không tán thành. Làm như thế, chúng ta không thật sự giúp đỡ họ, nhất là trong những giây phút khó khăn ấy.

Nói cách khác, cho dù ta không đồng một quan niệm với người lâm chung, nhưng tốt hơn hết chúng ta vẫn nên lưu tâm đến để có thể, hoặc là nói cùng một ngôn ngữ với họ, hoặc ít nhất cũng không làm cho họ phật lòng vì những lời nói trái ngược với những gì mà họ tin tưởngsự thật.

Như chúng ta đã biết, trên thế giới này có rất nhiều truyền thống, đủ loại tôn giáo; và mỗi một truyền thống hay tôn giáo đều đã thiết lập một số phương thức, đặc biệt để đối phó với những giây phút cuối của cuộc đời. Trong Phật giáo, nhất là Phật giáo ở Xứ Tuyết (hay Tây Tạng), vì sự quan trọng của giây phút lâm chung nên có rất nhiều vị cao tăng đã lưu tâm, vì thế Phật giáo có rất nhiều phương thức có thể ứng dụng được trong những giây phút ấy.

Lúc nãy tôi có nói rằng, trước sự phong phú của những kỹ thuật được hình dung trên thế giới, điều lý tưởng nhất là làm sao đạt được một sự hiểu biết càng sâu rộng càng tốt. Chính trong viễn cảnh đó mà buổi hội thảo hôm nay sẽ là sự đóng góp của Phật giáo, hay nói đúng hơn là sự đóng góp của [Phật giáo] Tây Tạng vào ngân hàng tài liệu chung.

Tuy thế, chính vì có quá nhiều phương phápPhật giáo đã thiết lập, chúng ta không thể khảo sát hết trong một vài giờ, hay ngay cả trong một vài ngày. Nếu chúng taý muốn đi đến tận cùng của đề tài, chúng ta sẽ cần đến rất nhiều năm tháng mà vẫn không rút tỉa được hết cốt tủy của nó. Nói thế không phải là khoe khoang. Vấn đề không phải là tự mãn trước những gì Phật giáo có thể đem lại cho kiến thức chung. Những ai biết Tạng ngữ có thể lướt qua hai tạng Kinh và Luận của Tây Tạng, tức là giáo pháp của đức Phật và những bản luận của các đại đạo sư Ấn Độ. Chỉ cần lướt qua thôi cũng có thể thấy ngay tầm mức của khối kiến thức ẩn tàng trong ấy.

Phật giáo là một tôn giáo đã xuất hiện tại Ấn Độ rồi lan truyền sang nhiều nước khác, trong đó có Tây Tạng, khoảng từ thế kỷ thứ sáu. Từ bao nhiêu thế kỷ qua, truyền thống này không những được gieo trồng mà còn đâm chồi nẩy lộc và nở ra những đóa hoa tuyệt đẹpTây Tạng, khiến cho những tri kiếnđức Phật và những vị tổ sư kế tục Ngài truyền trao đã mang lại một sự giúp đỡ to tát cho những thế hệ kế tiếp. Kết quả là truyền thống này vẫn còn rất sống động chứ không phải là một truyền thống xưa cũ đang tàn lụi và chỉ còn lưu lại kỷ niệm trong sách vở. Đây không phải là những kiến thức hàn lâm chuyên môn thuộc về trí năng thế gian, mà là một truyền thống có cội rễ trong những xã hội đã thừa nhận nó, và nó đã tác động một cách hiển nhiên, cụ thể đối với những người vận dụng nó.

Phật giáo, đặc biệtPhật giáo được truyền trao bởi các đại sư Tây Tạng, đã đem lại lợi lạc không những cho người Tây Tạng mà còn cho nhiều dân tộc láng giềng nữa. Các trường học Tây Tạng đã phát triển rộng rãi tại Nội Mông và Ngoại Mông và cả Trung Quốc. Trung Quốc quả là có biết đến Phật giáo trước Tây Tạng rất lâu, nhưng dưới hình thức khác. Vài thế kỷ sau, giáo pháp truyền trao bởi các đại sư Tây Tạng đã mang lại cho Phật giáo nước này một sinh lực mới. Sau khi đã lan truyền ở Á châu, hiện nay ta nhận thấy Phật giáo đã khơi dậy một sự quan tâm ngày càng rộng lớn hơn ở Âu châu. Ở đây, người ta biết đến Phật giáo ngày càng rõ hơn và đã có một số người hành trì Phật pháp nữa.

Nói tóm lại, Phật giáo quả thật có thể đề nghị rất nhiều phương thức, đặc biệt là trong lãnh vực của sự chết. Như tôi có nói, chúng ta sẽ không thể đề cập đến tất cả [các phương thức] vì nhiều lý do. Một là vì nội dung quá phong phú, hai là vì tri kiến Phật giáo là cả một đại dương mà sự hiểu biết của tôi chỉ như một vài giọt nước, và tôi chỉ có thể nói lên những gì tôi biết, nghĩa là rất ít so với toàn bộ. Thứ ba là vì có một vài phương thức trong Phật giáo đòi hỏi một sự chuẩn bị và cần phải thực hiện nhiều giai đoạn trước đó. Trong một buổi hội thảo dành cho đại chúng như hôm nay, đề cập đến những phương thức này không lợi ích gì, vì những căn bản cần thiết là quá đặc thù và quá chuyên môn để có thể ứng dụng cho tất cả mọi người. Trên thực tế, trọng tâm nhấn mạnh sẽ là những phương thức mà mỗi người trong chúng ta đây đều có thể sử dụng. Chúng ta sẽ đề cập đến những điểm rất thực tiễn mà ai cũng có thể áp dụng, không nhất thiết phải là Phật tử.

Làm sao tôi có thể quả quyết rằng tất cả chúng ta đều có những khả năng cần thiết để chuẩn bị cho cái chết? Đó là vì – ít nhất là theo quan điểm Phật giáonếu không phải tất cả thì cũng là đại đa số những kinh nghiệm hạnh phúc hay khổ đau mà ta đã trải qua trong suốt cuộc đời đều trước hết đến từ tâm chúng ta. Những gì chúng ta cảm nhận hầu hết đều đến từ trạng thái tâm thức của ta, từ cách nhìn sự việc của ta.

Về sự tụ tập của chúng ta hôm nay, với những điều kiện như vật chất v.v... hiện có, chắc chắn ta có thể bắt đầu suy niệm để có một cái nhìn thích đáng về sự việc hầu đối mặt với sự chết một cách dễ dàng hơn. Nói chung thì người nào cũng có khả năng làm điều đó. Hơn nữa, hãy công nhậnchúng ta thuộc thành phần được ưu đãi. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không có vấn đề gì. Chắc chắn là trong chúng ta đây cũng có những người gặp khó khăn thật sự như thất nghiệp, bệnh tật v.v... Nhưng sự có mặt của chúng ta ở đây đủ chứng minh rằng ta đang ở trong một hoàn cảnh có thể gọi là khá tốt, nhất là vì trí năng của ta hãy còn hoàn hảo, nhờ thế mà ta có thể suy nghĩlý luận.

Bởi vì ai cũng có khả năng suy tư nên tôi sẽ lấy ra từ cái túi đựng của Phật giáo những phẩm vật và bày biện trước quý vị. Như thế, quý vị sẽ có thể [tùy ý] chọn lựa. Hôm nay là thứ bảy, ngày họp chợ. Tôi sẽ bày hàng của tôi lên quầy hàng. Quý vị là những khách hàng đến dạo chơi, sẵn sàng mua hàng nếu cần nhưng không bắt buộc, chỉ khi nào tìm được món hàng vừa ý mới mua thôi.

Về tài liệu tham khảo

Để thảo luận đề tài hôm nay, giữa thiên kinh vạn quyển của Phật giáo nói về cái chết, chúng ta sẽ chọn ra và dựa theo ba nguồn tư liệu gốc: hai quyển kinh và một cuốn luận giảng Tây Tạng.

Kinh là giáo pháp do chính đức Phật đã tuyên thuyết hoặc khơi nguồn. Hai quyển kinh mà tôi chọn rất ngắn gọn, nhưng nội dung rất phong phúsúc tích. Đó là:

Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử.

Kinh nói về mười một niệm tưởng phải có.

Cả hai đều thuộc về truyền thống Đại thừa.

Kinh Đại thừa nói về diệu trí lúc cận tử đã được các nhà học giả Ấn Độ luận giải rất nhiều, đáng kể nhất là hai bộ luận chính bằng tiếng Phạn. Nhưng hôm nay tôi sẽ căn cứ trên một bộ luận gần đây hơn, của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 7, Kelsang Gyatso (1708-1757), rất mạch lạc và chi tiết.

Quyển sách tham cứu thứ ba là của Thượng Sư Tây Tạng Tuken Losang Chokyi Nyima, thường được tôn xưng là Kusali Dharma Vajra (1737-1802), tựa đề là “Làm sao giúp đỡ người lâm chung: cứu giúp những kẻ đáng thương hết sinh khí”.

Có rất nhiều đại sư Tây Tạng đã viết giảng luận về vấn đề này, cho nên chúng ta có rất nhiều tài liệu và không biết chọn tài liệu nào, nhưng muốn cho hữu hiệu thì chúng ta phải tự biết giới hạn hợp lý. Vì thế, chúng ta sẽ chỉ sử dụng ba tài liệu nói trên. Dầu sao đi nữa, tuy có rất nhiều bài viết bằng tiếng Tây Tạng nói về cách giúp đỡ người lâm chung và người quá cố, nhưng phần đông dạy về mật pháp và nội dung thường rất giống nhau. Sự khác biệt nằm ở đối tượng phải cầu thỉnh: Phật Dược Sư, Phật Di-lặc, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Văn Thù, hay Phật A-di-đà v.v... Nhưng ý nghĩalời nguyện cầu thì không thay đổi.

Mặt khác, có nhiều tài liệu như thế cũng là một điều rất tốt, vì đừng quên rằng theo Phật giáo, chúng ta nên và cần phải thích ứng mỗi hành động theo từng trường hợp. Bởi vì mỗi hành giả chắc chắn là có những mong cầu hay tập quán khác biệt và đa dạng, họ phải được cung ứng một phương pháp hành trì thích hợp với nhu cầu của họ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15640)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23125)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14118)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13028)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55219)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9246)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14507)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14235)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14255)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13944)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36407)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19958)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18228)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19292)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19215)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20396)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17710)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31618)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15994)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15089)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14758)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46278)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 36024)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21092)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21706)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23481)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34515)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19555)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 19003)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 23001)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20245)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18436)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19921)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19597)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33508)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34662)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54619)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37860)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21213)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17957)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17455)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49778)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27580)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20369)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23108)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18942)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16384)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 18000)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21021)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17433)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14525)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16926)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16458)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16080)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17563)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22086)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15170)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13549)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14405)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15441)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15058)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12763)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13421)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27471)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12580)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13260)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16287)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12452)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15479)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12917)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12241)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13249)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21741)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11316)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22815)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15153)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14989)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46272)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22550)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14649)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12685)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18962)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14819)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43961)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57114)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13901)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47595)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13703)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14655)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29085)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38452)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15449)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31301)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12567)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40513)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43516)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46736)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant