Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Suối nguồn yêu thương

24 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8693)
11. Suối nguồn yêu thương

SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG
Tâm Chơn

Suối nguồn yêu thương

1.

Tối nào ngoại cũng thắp nhang ngoài bàn thờ ông thiên và thành tâm vái lạy. Tôi đoán biết là ngoại đã không cầu xin gì cho ngoại hay khấn vái chung chung cho các con cháu của ngoại nữa. Mà lần này, bắt đầu từ đây, ngoại chỉ riêng dành nguyện cầu trời Phật phò hộ cho má tôi mau hết bịnh. Nhất là sau lần nhập viện chót để mổ, bác sĩ biểu đem má tôi về nhà “thích gì cho ăn đó, không cần kiêng cử nữa!”.

Má tôi bị ung thư tụy giai đoạn cuối, cả nhà giấu nhẹm, giấu luôn ngoại. Nhưng hình như linh tính của một bà mẹ đã báo trước những chuyện chẳng lành sắp sửa xảy ra cho gia đình nên dù mần gì mần, ngoại cũng lầm thầm cầu nguyện.

Ngoại cũng không quên nhắc chừng má tôi “ráng ăn đi con cho mau lại sức” và hay gợi lại những kỷ niệm xa gần, nói chuyện này nọ để má tôi phấn khởi trong lòng mà kéo dài thêm cuộc sống.

Ai dè, đâu được hai tháng ổn ổn là má tôi trở bịnh. Má biếng ăn hơn. Cơn đau nội tạng hoành hành làm quằn quại thân tâm má và làm cho ngoại phải sùi sụt kêu trời. Má tôi gầy mòn trông thấy rõ.

Mỗi ngày ngoại vẫn nấu nồi cháo, đun ấm nước sôi... Ngoại giành làm mọi thứ cho má tôi vì sợ không còn dịp để dốc cạn lòng yêu thương nữa. Má tôi cũng cố nuốt chút cháo, húp miếng súp cho ngoại vui mà cũng để tia hy vọng cuối cùng không tàn lụi.

Cho tới một ngày... chưa đầy sáu tháng như lời bác sĩ nói thì má tôi đã ra đi, trút gánh đau thương mà về cõi vĩnh hằng. Ngoại vật vã kêu gào thảm thiết. Ngoại nấc không thành tiếng. Chết lặng! Cảnh “tre già khóc măng non” cào xé lòng người.

Năm đó, tuổi ngoại đã ngoài tám mươi!...

2.

Suốt ba tháng quân trường đều đặn, cứ mỗi sáng chủ nhật là má lên thăm tôi. Lần nào má cũng đem theo các món ăn mà tôi ưa thích. Má nhìn ngó rồi nắm tay tôi âu yếm hỏi han, dặn dò từng ly từng tí. Tôi cũng hỏi thăm sức khỏe của má nhưng chỉ qua loa.

Hai tháng trôi nhanh, nhờ học tập tốt nên tôi được “đề xuất” lên chỉ huy cho về “đột xuất” một ngày thăm gia đình. Sự bất ngờ đó đã nhân niềm vui của má lên gấp bội. Nhưng sau cái “hạnh phúc” ấy tôi đã bắt gặp trong ánh mắt của má dường như có điều gì đang lo lắng. Ừ! Thấy vậy thì biết vậy, hình như tôi cũng chẳng mấy bận tâm. Vô tình thật.

Hôm mãn khóa huấn luyện má đã theo tôi đến đơn vị mới. Tôi sợ má đi xa sẽ mệt nên kêu thôi. Má dịu ngọt: “Hổng sao đâu! Má muốn biết nơi ăn chốn ở của con thế nào để má yên tâm.” Tôi thỏ thẻ: “Con sẽ cố gắng chấp hành tốt công tác để vài ba tháng được về thăm má một lần. Má khỏi lên thăm con chi cho cực.”

Tôi về đơn vị mới được hơn bốn tháng thì ở nhà má lâm bịnh. Sợ tôi lo nên má không cho hay biết gì. Ngay cả lần tôi về “tranh thủ” vừa rồi má cũng im ru. Mãi đến khi thấy cơ thể quá suy hao, không cam chịu nổi nữa rồi thì má mới điện thoại nhắn tôi về. Tôi xin phép đơn vị trở về lo cho má.

Tôi đưa má đi điều trị nhiều nơi, nhiều chỗ, hết bác sĩ này đến thầy thuốc nọ, cả tây lẫn ta, rồi vào nằm chữa trị ở nhiều bệnh viện lớn trên thành phố mà bệnh tình cũng chẳng giảm thuyên. Tới khi phát hiện ra chính xác căn bệnh thì cũng là lúc má tôi kiệt sức tàn hơi.

Than ôi! Cái việc mơ hồ về bệnh trạng hồi ấy đã khiến má phải đi loanh quanh, lòng vòng đến trễ tràng không còn cứu chữa kịp nữa, sau này tôi mới biết chính là do sự bạc phước vô phần, là nghiệp quả của nhiều kiếp gây tạo ở quá khứ xa xưa!...

3.

Chị yêu anh, ba má không đồng ý. Nhưng vì thương con, ba má đã lấy buồn làm vui mà chấp thuận cho anh chị nên vợ nên chồng.

Hôm chị sanh, má đem chị về nhà chăm sóc. Ba mỗi ngày vẫn chỉ bảo, nhắc nhở anh làm cái này cái nọ lúc chị còn trong tháng. Ba biểu anh đi kiếm chặt mấy nhánh dâu đem về giắt xung quanh chỗ chị nằm để em bé không bị giựt mình (?). Ba dặn dò đủ thứ. Dĩ nhiên là ba nhắc nhở không thường xuyên và kỹ lưỡng như má. Đàn ông mà!

Hôm bé được đầy tháng, ba tự tay ẵm bé lên nhà trên. Để bé nằm yên giữa đi-văng, ba đến trước bàn thờ thành kính đốt nhang khấn vái...

Ba thương chị, thương cháu nhiều hay ít thì tôi không rõ. Tôi chỉ biết là ba cũng thường lo lắng, sốt ruột mỗi khi chị đi đâu về trễ. Rồi ba cũng bực mình, cằn nhằn, rầy la, buồn giận khi nói chị không nghe lời...

Chị là con riêng của má.

4.

Em điện thoại cho tôi mà chẳng nói được câu nào. Khóc tức tưởi. Tôi biết là em đang đau lắm vì ít khi nào em khóc than kể lể. Tôi nghe em nức nở, lòng lặng đi. Những giọt nước mắt tủi thân tủi phận được dịp tuôn tràn, chảy xuống bờ môi mặn đắng.

Có anh bạn bảo là anh cũng đang hồi hộp lo sợ cho một điều hiển nhiên của kiếp sống là ai rồi cũng chết. Không phải nghĩ cho anh mà là lo lắng cho cha mẹ già. Anh cũng không ít lần an ủi “chuyện gì đến sẽ đến, phải chấp nhận đón lấy hai nỗi đau cùng cực ấy để rồi thôi!”

Tôi ngậm ngùi. Chỉ những ai bất hạnh sớm mất mẹ cha mới thấu hiểu nỗi đau đó dài ngắn thế nào, lớn nhỏ ra sao. Chứ như tôi thấy thì cái gì cái, nỗi đau mồ côi nó âm ỉ tê buốt lòng ghê gớm lắm! Nhất là khi gặp phải thói đời đen bạc, thế thái nhân tình mà không có cha mẹ bên cạnh vỗ về, chia sẻ thì niềm đau tan tác cả tâm can.

Để rồi đây đó bên đời xuôi ngược, nỗi tủi buồn muôn năm cũ như chực chờ trỗi dậy mỗi khi thấy bạn bè còn có cha mẹ để ấp ủ yêu thương. Vậy thì hỡi ôi! Cái xót xa tấc dạ ấy đâu chỉ có một, hai lần mà là nó sẽ kéo dài dai dẳng suốt một đời cù bất cù bơ.

5.

Trưa. Khách khứa đến chia buồn đã vãn đi ít nhiều. Chị thắp thêm nhang trước quan tài anh rồi lẳng lặng bồng con ra nhà sau đưa ngủ.

Ầu... ơ...
Con ơi con ngủ đi con,
Con khóc làm mẹ héo hon tấc lòng.
Chiều chiều chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau.
Ầu… ơ…

Tôi quay lưng bước đi chỗ khác, không dám nghe trọn bài ru vì sợ không cầm được nước mắt. Đứa bé mười tháng tuổi, khóc đã rồi nín, rồi chìm vào giấc ngủ say trong lời ru buồn xé ruột của mẹ nó.

Anh vẫn nằm im trong cỗ quan tài. Bất động. Lạnh lẽo. Bình yên?

Thật không ai ngờ tới được, mới mấy bữa nay thôi, anh còn khoe với đám bạn đủ điều về đứa con gái đầu lòng dễ cưng mà anh vừa có được sau hơn mười năm lấy vợ. Anh nói với tụi bạn là “sắp tới ngày thôi nôi của con tao, tụi mầy nhớ tới nhà làm một chầu quắc cần câu luôn nghen!”

Trước đó, hàng xóm còn thấy anh bồng con hát nghêu ngao ngoài vườn. Mỗi khi con khóc, anh cằn nhằn chị không biết dỗ con. Anh giành phần hát ru con ngủ.

Con ngủ đã giấc rồi con thức dậy. Con đòi bú, con chơi…

Còn anh, xế trưa hôm qua anh đã đi vào giấc ngủ thiên thu. Thảm thương. Đau đớn.

6.

Hoàn cảnh không cho nó tự do bộc lộ cảm xúc trước mặtquan văn võ. Nó cũng không cho mình cái quyền được tuôn trào nước mắt thản nhiên giữa thanh thiên bạch nhật. Không ai ngăn cấm nhưng mà nó ngần ngại, sợ làm ảnh hưởng đến tập thể. Ấy vậy mà có lúc nó cũng vô tư làm rơi giọt lệ sầu. Ồ! Thói quen thôi.

Thường thì nó vẫn âm thầm nén chặt niềm đau, chôn vùi thương nhớ. Nó chỉ dám nghẹn ngào những khi lặng lẽ một mình, hoặc trong phòng riêng, hoặc khuất sau chái nhà.

Ngày giỗ ba, rồi sau này là ngày giỗ má, nó thường dành chút thời giờ để tưởng nhớ. Lần nọ, hồi má còn sống, khi nuôi má bịnh ở nhà thương, nó đã cúng giỗ ba trong đó. Mấy món cơm canh chay đạm bạc, đơn lẻ, vội vàng được bày ra bên góc hành lang, đầy một góc lòng, nó cúi đầu lâm râm khấn vái.

Tối hôm đó, nó nhờ người nuôi bệnh kế bên dòm chừng má nó giùm một chút. Nó tranh thủ kêu xe ôm chở tới ngôi chùa gần nhất để lạy Phật cầu siêu cho ba và cầu an cho má. Cũng là thói quen.

Nó dư biết là tâm hương quyện với lòng thành sẽ có “giá trị” gấp trăm ngàn lần kiểu cách hình thức bên ngoài. Thế nhưng, nếu không thể hiện chút gì đó của tấc lòng thì nó chẳng yên bụng. Nó sẽ cảm thấy thiếu thiếu cái gì đó nếu như bỏ qua phần lễ nghi tưởng niệm.

7.

Lúc sinh thời, mỗi khi thấy tôi làm biếng học là má lại tỉ tê gạn hỏi lý do, rồi dỗ dành khuyên lơn nhắc nhở. Má ít khi la mắng hay đánh đòn mà chỉ nhỏ nhẹ phân tích thiệt hơn, chỉ dạy điều hay lẽ phải. Má cũng thường hay nhắc lại câu nói của ông ngoại từ cái thời xa xưa năm nẳm năm nào thuở má còn cắp sách.

Má nói ngoại luôn tha thiết như vầy: “Ba má thất học nên nghèo. Khi ba má chết không có của để lại cho các con. Ba má chỉ cho các con cái chữ để sau này tự nuôi sống bản thân.”

Không những má nhắc lại y chang lời của ngoại mà còn “mở ngoặc” cặn kẽ thêm rằng: “Dẫu ba má có của để lại mà con cái không có ăn học, không biết cách làm ăn, giữ gìn thì sớm muộn gì cũng tiêu tan hết. Chi bằng tụi con ráng học cho có trình độ để sau này còn có chữ nghĩa để bán mà nuôi thân.”

Tất nhiên, hồi ấy anh em tôi ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con đường mà tôi chọn lại rẽ sang một hướng khác, nó hoàn toàn mới mẻ đối với gia đình tôi, cả hai bên họ hàng nội ngoại. Má tôi như đoán biết hoài bão của tôi nên đã bao phen ngăn cản, cũng như luôn âm thầm dòm ngó, canh chừng tôi. Má tôi lo ngại.

Rồi cái ngày muôn người như một đều không dám đối diện, không dám luận bàn, không dám nghĩ tới (trừ các bậc thức giả, nhà tu hành) lù lù xuất hiện: Cái chết. Ai rồi cũng sẽ đến, ai rồi cũng phải qua, má tôi ra đi vĩnh viễn. Má ngỡ ngàng giã biệt dương gian khi chưa kịp tới cái tuổi mà người đời gọi là hưởng thọ. Anh em tôi hốt hoảng, bàng hoàng với nỗi đau không một lời rên siết.

Ai đó đã nói “khi nỗi đau khổ đã đến tột cùng thì nước mắt chỉ chảy vào mà không thể tiết ra.” Hẳn là như vậy!

Để rồi bây giờ và mãi về sau, cho tới ngày vô thường réo gọi thì có lẽ nỗi nhớ niềm thương hai đấng sinh thành mới thôi ray rứt âm ỉ trong lòng anh em tôi.

8.

Anh lập gia đình và đã có được hai con. Nhà anh ở cách nhà ba ruột chỉ một cái sân của nhà bên cạnh. Ba anh sống với người vợ kế cũng có hai đứa con. Anh thì ít tới lui qua lại.

Nghe anh bịnh, ba anh lo lắng, má kế cũng nóng lòng. Gia đình anh lục đục, cơm không lành canh không ngọt, vợ anh lớn tiếng chửi mắng anh, ba anh buồn thấu ruột. Mỗi khi nghe tiếng đứa con dâu ong óng vọng sang, ba anh liền vô buồng đóng chặt cửa lại giấu hàng nước mắt.

Anh đi làm xa, ba anh sốt ruột ngóng trông. Bình thường, thỉnh thoảng vợ anh cũng sang chơi, nói dăm ba câu “xã giao” thăm hỏi. Ba anh thì vẫn như ngày nào, luôn niềm nở với con cháu. Có hai đứa cháu nội tới lui, ba anh thấy an ủi tuổi già.

Ba anh thương tụi cháu thấy rõ. Ba anh cũng thương anh quá chừng quá đỗi vậy. Nhiều người hàng xóm chê trách anh “bất hiếu”, ba anh cười phớt lờ thông cảm: “Nó đi làm tối ngày chớ có rảnh rang gì! Tánh nó vậy!” Ba anh chưa một lần buông lời than thở về anh.

Anh vẫn thản nhiên đi đi lại lại ngang nhà. Có khi thấy ba anh ngồi trước hàng ba thì cũng ghé vào thăm hỏi ba điều bốn chuyện rồi đi. Những lần ấy, ba anh sung sướng cả ngày.

Anh có nỗi khổ tâm của mình? Anh không thích má kế? Chẳng hề gì! Mà má kế có ghét bỏ gì anh đâu. Anh ốm đau một tay bà lo liệu. Bà lại đứng ra cưới vợ cho anh, rồi chỉ dẫn vợ anh cách làm ăn buôn bán. Thế thì... tại vì sao nữa? Anh vẫn còn ông già ruột kia mà! Dù gì thì anh cũng không nên dửng dưng với ba anh. Tội lắm.

Lúc ba anh mất, anh đang đi làm xa. Má kế cho người tìm vợ chồng anh về để tang.

Anh bước vô nhà. Lặng im.

Hôm đưa ba anh đi chôn, anh đã bật khóc. Giọt nước mắt đau thương gì rồi cũng sẽ khô đi và dòng lệ kia cũng sẽ được lau sạch, nhưng nỗi mất mát và sự nuối tiếc ăn năn này sẽ dày vò xâu xé suốt đời anh.

9.

Cô Như Đức kể lại rằng trên chuyến xe khách hôm ấy có một bà cụ đi chung với con gái, con rể và cháu ngoại. Xe chật chội, người ngồi phải ép sát vào nhau. Bà giành đứa cháu ngoại ngồi với mình để cho má nó được thong thả, thoải mái.

Chiếc xe đò chạy hụt hơi tìm rước khách. Ai nấy đều làm thinh, gật gù, mệt mỏi trông cho mau tới nhà. Chỉ có bà là không hề mệt mỏi gì ráo, tỉnh queo, hết lo nhắc đứa này tới nhắc đứa kia. Xức dầu, coi chừng giỏ xách, đừng thò tay ra ngoài... Lúc nào bà cũng không yên.

Đến một cái chợ nhỏ, người mẹ mua bánh cho con trai con gái, chỉ lo cho các con ăn uống mà quên bẵng bà mẹ mình. Tới chừng chợt nhớ thì chị mới mời một tiếng: “Má ăn bánh, má!”

Rồi tới chỗ bà mẹ xuống trước, con cháu hình như còn đi đâu đó mới về nhà sau. Bước xuống xe rồi bà còn lăng xăng chạy mua chai nước suối gởi lên cho cháu.

Cô Như Đức trông thấy sự việc ấy, lòng ngậm ngùi!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31690)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10540)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11239)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12773)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10820)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16687)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10831)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22982)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12039)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11507)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10701)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12350)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11204)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10040)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10335)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11936)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10706)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12387)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9827)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11286)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13851)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12644)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9714)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10473)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10583)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10339)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9916)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11067)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12027)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10151)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10795)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9547)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8777)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9508)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14535)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12567)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10433)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9093)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10569)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9347)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8816)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10528)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9206)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8373)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12040)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9705)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10222)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10236)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19161)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9422)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8998)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9594)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9026)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14770)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10105)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8362)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8983)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8752)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14613)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9047)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8788)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9056)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10542)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8651)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10005)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24298)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11035)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9011)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9484)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8015)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9280)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15361)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10346)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17463)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21415)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12178)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10240)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19265)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26060)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7985)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14818)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10643)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11361)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9544)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18691)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12375)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11898)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13353)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9282)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9402)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15915)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant