Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu

04 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14180)
Lời giới thiệu

CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

LỜI GIỚI THIỆU

Sức phát triển của bộ môn Tantra tại Ấn Độ thiên về tâm lực xảy ra đồng thời với mối đe doạ huỷ diệt ngày một lớn ở biên giới tây bắc Ấn Độ. Ngay từ đầu thế kỷ 8, khi thế lực hùng mạnh của người Ả Rập trải dài từ Morocco đến xứ Sindh (Pakistan) thì tại Ấn Độ, phần lớn những người kế vị đế quốc vinh quang Gupta lại bận rộn với cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, và nền văn hoá Ấn Độ bắt đầu đi vào thời kỳ ruỗng nát.

Cơ chế tôn giáo cũ mất dần hiệu lực kiểm soát, nên xã hội phải nương vào các luật lệ rất khắt khe về đẳng cấp. Do đó, nghi lễ và nền triết học kinh viện thống lãnh đời sống xã hội. Không có một sức mạnh xã hội đoàn kết thống nhất để đối phó với sự đe doạ của các đạo quân Hồi giáo cuồng tín đi đến đâu cướp phá và tàn sát đến đó.

Trong khi quân Hồi tiến hành cuộc chiến tranh huỷ diệt Phật giáo ở Trung Á thì pháp môn Tantra gia tăng ảnh hưởng, đặc biệt là ở Oddiyana thuộc khu vực ranh giới đông bắc Ấn Độ. Tại đây, triều đại Phật giáo Pala đang thời cực thịnh.

Phải chăng do ngẫu nhiên mà trong thời kỳ chớm hoang tàn người Ấn đã nương tựa vào pháp môn Tantra, một môn vật lý siêu hình với giáo thuyết bất nhị tuyệt đốigiải thoát cùng với hình ảnh các vị thần dữ tợn ăn thịt, uống máu? Phải chăng vì vô tình mà qua nhiều thế kỷ phương Tây chối bỏ Tantra nay quay lại thừa nhận giá trị siêu việt của nó, đem lòng tín mộ và đồng thời lo ngại sự thất truyền của pháp môn Tantra này.

Gần 4 thế kỷ trôi qua – kể từ giữa năm 711, khi xứ Sindh bị xâm lược, cho đến thế kỷ 12 – giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bị quân xâm lược Thổ huỷ báng, mạo phạm. Nhưng cũng chính trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 lại là thời kỳ chói lọi nhất của nền văn minh thuần tuý Hindu.
Suốt thời kỳ này, quốc gia Tây Tạng đã kịp thời nắm bắt tinh tuý của Tantra Phật giáo và các kinh điển Mật tông chính yếu đều được dịch sang Tạng ngữ, nhờ vậy đã tránh được sự thất truyền vì các đại tu viện và thư viện của Ấn Độ bị quân thù đốt phá.
Khi thủ phủ Java trở thành thuộc địa thì đồng thời một đại tu viện được xây dựngBorobohur. Mặc dù những thành quả nghệ thuật ở quê nhà bị quân Hồi giáo hủy diệt, nhưng các kinh điển Mật tông của đế quốc Pala (gồm Bengal, Bihar, OrissaAssam ) vẫn được bảo tồn.

Các di tích đền đài tu viện do các hoàng đế triều đại Pala xây dựng đã chứng minh giá trị nghệ thuật tuyệt vời của Mật tông. Nền nghệ thuật chịu ảnh hưởng đậm đà của Tantra đã miêu tả các đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ thuộc thời kỳ này. Những con người biểu trưng cho đặc tính, mục đíchlý tưởng của một nền văn hoá. Họ là động cơ, là lực lượng điều hướng những năng lực đầy sáng tạo để làm chuyển biến cả một dân tộc và thay đổi nền móng xã hội Ấn, làm mẫu mực, và là những ngôi sao sáng trên bầu trời huyền thuật của pháp môn Tantra. Những con người ấy được tôn vinh là Đạo sư (Siddha).

Tám mươi tư vị đạo sư này là những vị tiêu biểu, đại diện cho hàng ngàn vị khác thông suốt về pháp môn huyền thuật. Điều đáng lưu tâm là các đạo sư này xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Họ có thể xuất thân từ hàng vua chúa, quan lại, thầy tế lễ, các nhà Du-già, thi sĩ, nhạc sĩ, thợ thủ công, nông dân hoặc một phụ nữ nội trợ, thậm chí có thể là một cô gái lầu xanh.

Tám mươi tư vị đạo sư mà cuộc đời và các phương pháp tu tập của quý ngài được mô tả trong các truyền thuyết được đưa vào tác phẩm này là những đạo sư Mật tông Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với các môn huyền thuật (tantra) của thần Sivagiáo phái thờ Đại Mẫu.

Trong 84 vị ấy, lừng danh nhất là các đạo sư Tilopa, Naropa, Saraha, Luipa, Ghantapa, Dombipa... Họ là những bậc chứng ngộ, những nhà Du-già khất thực, sống lẫn lộn và hoà nhập vào tầng lớp bình dân nghèo khổ ở tận cùng đáy xã hội. Các đạo sư này giáo hoá quần chúng bằng chính hành vi, thái độ, cung cách của các ngài và sử dụng các phương pháp gây chấn động tâm linh hơn là thuyết giảng suông về giáo lý.

Một số trong các vị ấy là những người chủ trương bài trừ mê tín, đập đổ tượng thờ và không chịu ép mình vào những khuôn khổ cứng nhắc. Họ đánh đổ các hủ tục và tập quán xấu đã có từ lâu đời để tạo một luồng sinh khí mới và sống động cho xã hội. Chế độ đẳng cấp và các nghi thức thuần tuý tôn giáo theo chủ nghĩa kinh viện tự động huỷ diệt khi các vị đạo sư này thể hiện giáo pháp bằng lối sống phóng khoáng đầy giải thoát. Vì vậy, các ngài không viện dẫn thứ ngôn ngữ kinh viện để giáo hoá, mà bằng những ngôn từ giản dị, bình dân, dùng thổ ngữ để viết lên những bài đạo ca trác tuyệt có nội dung đánh đổ những tư tưởng sai lệch, những điều xấu xa của xã hội, cũng như những tà kiến về tín ngưỡng.
Các ngài giáo hoá những gì có liên quan đến thực tại nhiều hơn là những ý niệm siêu hình. Các ngài giáo hoá lý tưởng của cuộc sống chứ không phải cách ép xác, khổ hạnh hay xa lánh gia đình.
Không một nguyên tắc chính thức nào và cũng không có một sự đồng nhất nào về hình tướng, về cung cách giáo huấn. Đó chính là đặc điểm của các đấng đạo sư này.

Dưới sự bảo trợ của các hoàng đế Pala vùng Đông Ấn, nơi mà đại đa số các đạo sư sinh sống, một cuộc cách mạng đã manh nha hình thành.
Nhiều đại tu viện được xây dựng hoặc được trùng tu trở lại hay mở rộng. Tuy nhiên, thái độ chỉ trích công khai của các ngài về hình thức lễ nghi rỗng tuếch của tôn giáo, chủ nghĩa kinh viện, sự bịp bợm và thói đạo đức giả cũng như những phê phán về chế độ đẳng cấp của thời ấy có phần nhẹ nhàng hơn so với thời kỳ của ngài Naropa ở thế kỷ 11.

Mật tông được phổ biến rộng rãi trong xã hội nhờ một số đạo sư thuộc các thế hệ sau nắm giữ quyền hành thế tục. Họ tạo ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân và có những hoạt động gắn liền với những biến cố lịch sử ở nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra, tính chất uyển chuyển linh động của Mật tông cho phép các đạo sư khai ngộtruyền tâm ấn cho một môn đồ khi người này vẫn giữ địa vị thế tục cũng như tài sản và các thú vui ngũ dục, như trường hợp của đạo sư Lilapa chẳng hạn.

Nguyên tắc rộng rãi bao dung này chính là yếu tố cơ bản có sức hút và tính thuyết phục mạnh mẽ của pháp môn Tantra trong Phật giáo. Bởi một lý do dễ hiểu là tại Ấn Độ trải qua hàng chục thế kỷ, chủ nghĩa khoái lạc thường được xem như một phương thức để giải phóng tinh thần.

Tính chất vô tổ chức cùng thái độ khai trừ các nghi thức tôn giáo đã chiếm ưu thế trong Bí mật pháp. Tuy nhiên, Mật tông vẫn giữ được sự chân truyền cho đến ngày nay.

Vốn là một pháp môn bí mật nên trải qua nhiều thế kỷ Tantra mới được truyền ra ngoài. Lai lịch của nó cũng chỉ là những phỏng đoán nhờ dựa vào niên kỷ của các pháp sư Mật tông. Ban đầu, Tantra được ngụy trang dưới hình thức cầu đảo của các bộ tộc thờ Đại Mẫu, sau đó lan dần xuống các đẳng cấp thấp hơn trong xã hội Hindu. Một bản sao lục về pháp thuật với nhiều mục đích khác nhau như chữa bệnh, trừ tà trở thành một bộ phận của các giáo phái bí mật. Qua nhiều thế kỷ, khi các bản sao lục được Phạn hoá và thường là ngụy tạo hơn là chính bản gốc, các giáo phái bí mật lần lượt xóa bỏ các vị thần của đạo Bà-la-môn cùng các nghi thức và các nguyên tắc của mật chú. Cho nên càng về sau triết học của Áo nghĩa thư, các kinh điển của khoa Du-già cũng như các giáo pháp của Phật giáo Đại thừa cũng rơi vào một số phận tương tự. Tuy nhiên, có một sự chuyển hoá quan trọng là cơ cấu nghi thức Mật giáotrở thành một hệ thống siêu hình với mục đích giải phóng con người ra khỏi khổ đau. Và Kapalika, một giáo phái tương tự như dòng Tantra của Saiva, do nhiều tu sĩ Phật giáo hình thành. Đây là dòng Mật tông đầu tiên.

Nhưng mãi đến thế thế kỷ 4 hoặc 5, do nhu cầu truyền thừa để giữ vững mối đạo, các kinh điển Mật tông mới được chép lại trên lá cọ. Trước đó chúng chỉ được truyền khẩu.

Bộ kinh Manjusri Mulakalpa bao gồm các tư tưởng Đại thừa lẫn Kim cương Mạn-đà-la của Ngũ Phật Thiền Định, nhưng Guhyasamaja Tantra lại được xem là tác phẩm đầu tiên trong số các Tantra gốc mô tả khoa Du-già, gồm các mạn-đà-la, mật chú và các nghi thức để triệu thỉnh một vị thần đặc biệt nào đó cùng với quyến thuộc của ngài. Đây chính là trường hợp của Guhyasamaja. Có lẽ môn Tantra này được biên soạn vào thế kỷ 6 hoặc 7, nhưng mãi đến thế kỷ 8 mới được ngài Indrabhuti truyền ra ngoài.

Thế kỷ 8 và 9 đã chứng kiến một sự khải huyền (revelation) của các môn Tổng trì (Major Tantras), đặc biệtThai tạng thừa của Phật giáo pha lẫn một số yếu tố của giáo phái thờ Đại Mẫu (Sakta).
Khi kinh văn Tantra được viết ra thì không còn giữ bí mật được nữa. Có lẽ có nhiều lý do để giữ bí mật, nhưng lý do quan trọng nhất là tránh sự thù địch đối với đạo Bà-la-môn, vốn là một tôn giáo lớn vào bậc nhất thời ấy.

Một trong những khía cạnh có tính thu hút của Tantra Phật giáo là việc truyền trao rộng rãi pháp tu cho mọi tầng lớp quần chúng, cả nam lẫn nữ, khác với sự độc quyền truyền thừa cho một giai cấp được ưu đãi trong xã hội. Hơn nữa, phép tu có phần phóng khoáng do không chịu ảnh hưởng của Tantra Sakta (Đại Mẫu) nên cho phép dùng rượu thịt và tính giao giữa tầng lớp quý tộc với giai cấp hạ tiện. Đây là những điều cấm kỵ đối với đạo Bà-la-môn.
Một trong những thành công lớn nhất của các nhà sư Phật giáo là biến môn Tantra thành một cái gì đó mà xã hội đương thời có thể chấp nhận được, và mặc dù các hình thức Tantra Phật giáo được phổ biến vào thời ấy có phần thoả hiệp với tôn giáo lớn (Bà-la-môn) nhưng về học thuyết cơ bản vẫn có sự đối địch cho đến ngày nay.

Chính nhờ sự thoả hiệp ấy mà Phật giáo đã thu hút được những tâm hồn vĩ đại, những học giả đạo sĩ thông tháiuyên bác có khả năng trước tác nhiều bộ luận quan trọng về Tantra, cũng như chú giải rành mạch những điểm tối nghĩa của Tantra bằng chính giáo pháp và các nguyên lý của Phật giáo Đại thừa. Các ngài còn lược bỏ những dấu vết thô thiển của pháp môn này để tạo thành một dấu ấn lớn.
Trước khi mô tả các pháp Du-già và phương thức tu luyện của những pháp sư đa dạng này, có lẽ cần định nghĩa một số từ Sanskrit mà ở đây chúng tôi sẽ giữ nguyên không dịch vì không có thuật ngữ tương đương.

Trước hết là từ siddha. Về mặt ngôn ngữ, siddha là người tu pháp môn Mật tông hay Tantra và đã thành tựu đạo quả, nên cũng được dịch là “thành tựu giả” (người đã thành tựu). Sự thành tựu này được gọi là siddhi. Từ siddhihai nghĩa: một là thần thông, hai là Phật trí, hay trí giác ngộ. Do vậy siddha thông thường có thể dịch là thánh tăng, pháp sư, đạo sư hay kim cương. Nhưng những từ này không đủ sức diễn tả hết mật hạnh của các ngài. Đối với một người bình thường chưa được khai tâm thì siddha trước hết ám chỉ một con người có các phép thần thông quảng đại. Nếu một hành giả Du-già có thể đi xuyên qua tường, bay trên không trung, chữa lành các bệnh tật, biến rượu thành nước, đọc được ý nghĩ của người khác... vị ấy được phong tặng danh hiệu Siddha. Nhưng cũng vị sư Du-già ấy, nếu có tia nhìn lấp lánh vẻ điên dại trong đôi mắt, bùn đất trét đầy thân thể, hát lên những lời ngô nghê khiến người nghe phải rơi lệ... sự xuất hiện bất ngờ của vị ấy khiến cho một đám đông đang ẩu đả phải chấm dứt ngay lập tức; vị ấy có thể khiến cho một phụ nữ hiền thục đoan trang từ bỏ mái ấm gia đình, dùng bình bát là chiếc sọ người, chuyện trò với các loài chim chóc, ngủ chung với người bệnh hủi, quở mắng những kẻ mị dân và những người có hành vi trái với luân thường đạo lý, giữa búi tóc bện dài hàng thước có đính một viên kim cương - biểu tượng cho sự kiên cố và tánh bất hoại: vị ấy chính là Mahasiddha. Cho nên nếu chỉ căn cứ vào hình tướng bên ngoài của các vị này, phàm phu không thể nhận biết được mục đích của họ qua những hành động cử chỉ dị thường.

Các vị siddha, hay Kim cươngMật tông có thể xuất hiện trong nhiều hình tướng hoặc ở những địa vị xã hội khác nhau. Có thể đó là một kẻ bán rong, một vị quan, một ông hoàng, tu sĩ, đày tớ, nô lệ, hay một kẻ có cuộc sống lang thang đây đó, thậm chí có thể là một cô gái lầu xanh.

Tiếp đến là từ saddhana, có thể dịch là “tu pháp”. Đó là hành động hợp nhất giữa thân, khẩu và ý do nguyện lực của vị Bồ Tát. Saddhana còn là giới luật tu tập của một hành giả Du-già được thầy truyền trao. Saddhanasaddhana rất quan trọng đối với một Tantrika, tức hành giả tu Mật tông. Trong thực tế, saddhana chính là toàn bộ cuộc đời của hành giả. Vị này sẽ không thể thâm nhập vào saddhana một khi còn vi phạm lời thệ nguyện lúc mới được khai tâm.
Việc thực hiện saddhana phải hoàn toàn dựa trên căn bản vô ngã để cống hiến toàn bộ cho sự giác ngộ và đem tri kiến giải thoát này mà thành tựu đạo quả cho người khác.
cũng là nghi thức thiền định của một tu sĩ đã được truyền giới. Như vậy,

Trong ngôn ngữ Tây Tạng, saddhana được dịch là Sgrub Thabs, chỉ có nghĩa là “thành tựu pháp”, tức là pháp môn tu tập để đạt tới đạo quả.

Tùy theo nhân cách của từng vị mà saddhana của mỗi vị có phần khác nhau. Dù ý nghĩa hạn chế nhưng tựu trung thì các saddhana là những phương cách thiền định hoàn bị và sáng tạo. Mục đích rốt ráo của saddhanaMahamudrasiddhi, nghĩa là Thần thông Đại thủ ấn.

Siddhi bao gồm hai nghĩathần thông và sự giác ngộ. Từ “giác ngộ” ở đây được định nghĩa là “nắm hiểu rốt ráo tánh nhất quán của các pháp”, tức là tri kiến bất nhị về thật tánh của các pháp.
Trí phát sinh cùng lúc với Bi. Sự hội nhập giữa Bi và Trí chínhMahamudrasiddhi. Nhập vào Ba thân, có đủ Tứ trí thì gọi là Mahamudra.

Mahamudra là một thuật ngữ siêu hình khó hiểu. Trong Tantra Mẹ (mother tantra), mahamudrabiểu tượng của chân đế.

Theo hệ phái Áo Vãi (Kargytpa) hay là dòng Đại thủ ấn, mà tiêu biểu là các đạo sư Tilopa, NaropaMarpa, thì Mahamudrasiddhi gồm 8 đại thần lực. Nhưng truyền thuyết nói rằng ngài Bồ Tát Long Thụ truyền cho ngài A-xà-lê Long Trí 6 món thành tựu như sau:

1. Thấu suốt các pháp.
2. Trí huệ thiện xảo.
3. Biến hoá thần thông.
4. Phương tiện thù thắng.
5. Thần túc.
6. Phép luyện đan dược trường sinh bất tử.

Những pháp thuật như thế có thể được diễn dịch một cách hình tượng về mặt văn chương tùy theo đức tintrí tuệ của mỗi chúng sinh. Do đó sự hiển lộ thần thông của một vị đạo sư như đi xuyên tường chẳng hạn, chỉ là phương tiện để đem lại niềm tin vào pháp lực đối với kẻ kém trí, nhưng đồng thời cũng chứng minh rằng bản chất của thực tướng cũng chỉ là hình bóng, là ảo ảnh, là ánh sáng, là hư vô.

Chúng ta cần hiểu rằng tất cả các pháp thuật thần thông ấy đều dựa trên một nguyên lý cơ bản: “Các pháp đều do tâm tạo.” Đối với một đạo sư không có sự phân tách riêng biệt giữa thântâm, giữa tinh thầnvật chất, giữa tangười khác.

Vì thế nên các ngài có thể trực nhận được đau khổ của người khác và có thể thực hiện các phép lạ bằng cách vận hành các nguyên tố đất, nước, lửa, gió như những phương tiện cứu độ.

Ngay cả một hành giả còn sơ cơ cũng có thể đạt được một số thần thông trong lúc thiền định, nhưng quan trọng nhất là sau khi xả thiền các thần thông ấy không bị mất. Đó mới chính là dấu hiệu của sự chứng đắc.

Hành giả phải khéo vận dụng các phương tiện thiện xảo để an tâm mình và người khác, giúp cho các pháp lành tăng trưởng và làm biến đổi ý thức một cách tự phát. Vì thần thông sẽ mất đi khi hành giả bị vọng tưởng che lấp, còn trực giác nhạy bén do thiền định lâu ngày sẽ phát sinh.

Trong Mật tông các thần lực được tượng trưng bằng hình tướng của bốn thiên nữ (dakini) cai quản bốn đại (đất, nước, lửa, gió).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10313)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11174)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10994)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11226)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11280)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14289)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12503)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26375)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11728)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29299)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11682)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10803)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11113)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10974)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10799)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11337)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10798)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12271)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11303)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10084)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11417)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13434)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11286)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11491)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12717)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13792)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13211)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12829)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12180)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30165)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38162)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24929)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10986)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11759)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10690)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11239)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11548)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12924)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12127)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11342)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10232)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11821)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11215)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10913)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13098)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10212)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10888)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10959)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14552)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10710)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21992)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12092)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11454)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30211)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19616)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20597)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12585)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12577)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21225)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13273)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14487)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30458)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28049)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28392)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20982)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28705)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27260)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21999)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21506)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26252)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21663)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23445)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26418)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23248)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19867)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22970)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21183)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20001)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15436)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39276)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25703)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14145)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26096)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22528)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29159)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22578)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22924)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13227)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23209)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13196)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28989)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30529)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14262)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26285)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33250)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35584)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8660)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13342)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30678)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22159)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant