Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ hai: Niệm Phật phải vì phát vô thượng Bồ-đề tâm

21 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12397)
Phẩm Thứ hai: Niệm Phật phải vì phát vô thượng Bồ-đề tâm

NIỆM PHẬT SÁM PHÁP

Tác giả: HT Thích Thiền Tâm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

PHẨM THỨ HAI

NIỆM PHẬT PHẢI PHÁT VÌ VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ TÂM

 

Bản hoài đích thật của đức Thế Tôn là muốn cho tất cả chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được giác ngộ như Ngài cho nên, người niệm Phật cần phải phát bồ đề tâm- tức là phát khởi cái tâm chí mong cầu quả vị Phật Ðà, quả vị ấy là cứu cánh tối thượng, không còn có gì hơn, siêu việt cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác; nên phát tâm như vậy còn gọi là phát vô thượng bồ đề tâm. Tâm nầy gồm có hai loại chủng tử chính yếu, là Từ-Bi và Trí-Tuệ, thường hay phát xuất công năng độ thoát mình và cứu vớt tất cả chúng sanh.

Kinh dạy rằng : Bồ-Ðề tâm làm nhân, Ðại-Bi làm căn bản, phương tiện Trí-Tuệ làm cứu cánh.

Vì như người đi xa thì trước tiên phải nhận định mục tiêu sẽ đến và phải ý thức chủ đích cuộc hành trình bởi lý do nào- và sau cùng thì phải dùng phương tiện nào để khởi tiến.

Người học Phật cũng phải như thế nghĩa là, trước tiên phải lấy cái quả-vị Vô-Thượng Bồ-Ðề làm mục tiêu rốt ráo, lấy lòng đại bi lợi mình lợi người làm chủ đích thực hành, kế đó, tùy sở thíchcăn cơlựa chọn pháp môn để tu tập. Phương tiện còn là trí tuệ quyền biến tùy cơ nghi, áp dụng tất cả hạnh thuận-nghịch trong khi hành Bồ-tát đạo. Cho nên, Bồ đề tâmmục tiêu cần phải nhận định rõ ràng trước khi hành trì.

Kinh HOA NGHIÊM dạy rằng : Nếu quên mất tâm Bồ đềtu hành các thiện pháp, đó là ma nghiệp.

Thật vậy, nếu dụng công khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình và lợi người, thì bao nhiêu các hạnh lành chỉ đem đến kết quả hưởng phước báo nhơn thiên, chung cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn trong nẽo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ. Như vậy chẳng là nghiệp ma thì còn gọi là gì? Thế thì, phát lòng vô thượng Bồ- đề để lợi ích cho chính mính và cho chúng sanh, là điểm phát tâm rất cần yếu.

Pháp môn Niệm Phật thuộc về pháp đại thừa, nếu phát Bồ-đề-tâm niệm Phật thì TÂM và PHÁP đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả viên giác kiêm cả tự lợilợi tha.

Muốn phát Bồ-đề-tâm , người niệm Phật cần phải quán sát để phát tâm một cách thiết thựchành động đúng theo tâm nguyện ấy trong suốt cuộc đời mình. Ðệ tử chúng con lâu nay phần nhiều chỉ tu theo hình thức mà ít chú trọng đến chỗ khai tâm thành thử lửa tam độctham sân si vẫn cháy hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát như đức Phật dạy.

Muốn cho Bồ-đề-tâm phát sinh một cách thiết thực, cần nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu điểm như sau :

Ðiểm thứ nhất : GIÁC NGỘ TÂM

Chúng sanh thường chấp sắc thân nầy là Ta. Thường chấp cái tâm thứchiểu biết có buồn giận thương vui nầy là Ta. Nhưng thật ra, sắc thân nầy là giả dối, ngày kia khi chết đi, nò sẽ tan về với đất bụi, cho nên sắc thân tứ đại nầy không phải là Ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là cái thể tổng hợp về cái biết của sáu trầnsắc thanh hương vị xúc pháp. Cái biết của ta khi thì có khi thì không – hình ảnh nầy tiêu hoại thì hình ảnh khác hiện ra, tùy theo trần cảnh mà thay đổi luôn luôn, hư giả không thật. Cho nên, tâm thức nầy không phải là Ta.

Cổ đức đã bảo : Thân như bọt tụ, tâm như gió Huyễn hiện vô căn, không tánh thật.

Nếu giác ngộ thâm tâm như huyễn thì sẽ không còn chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới nhơn không, chẳng còn Ngã-Tướng. Cái Ta của ta đã là không, thì cái ta của người khác cũng là không nên chẳng còn Nhơn-Tướng. Cái Ta của ta đã là không, thì tấc cả cái Ta của vô số chúng sanh cũng là không. Nếu không còn Chúng sanh Tướng Cái Ta đã là không, nên không có bản ngã bền lâu, nên không thật có ai chứng đắc, không có ai thọ nhận, nên không có Thọ-Giả-Tướng.

Nhơn đã không thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Ðây lại cần nên nhận rõ : chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà chính vì nó hư huyễn nên đương thể tức là không? : Cả Nhơn cũng thế. Khi giác ngộ là cả Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnhtrong sáng, không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ-đề-Tâm .

Ðiểm thứ hai : BÌNH ÐẲNG TÂM

Trong khế kinh, đức Phật đã dạy rằng :Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là cha mẹ đời quá khứ của ta và là chư Phật đời vị lai.

Chư Phật thấy chúng sanh là Phật nên dùng tâm bình đẳng đại bicứu độ. là đệ tử của Phật, chúng con phải tuân theo lời dạy của đức Thế Tôn. Cho nên đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng và tôn trọng. Tôn trọngthừa sự chúng sanhtôn trọng và thừ sự đức Như-Lai, làm cho chúng sanh hoan hỷ tức là làm cho chư Phật hoan hỷ. Kinh HOA NGHIÊM phẩm Phổ Hiền đã dạy như thế. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính mà tu niệm thì chúng con sẽ dứt được cái nghiệp chướng phân biệt và khinh mạn, rồi nhờ đó mà sẽ dứt trừ được mọi thứ phiền não để nẩy sinh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo thì gọi là phát vô thượng Bồ-đề-tâm .

Ðiểm thứ ba : TỪ BI TÂM

Ðệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh đều sẳn đủ công đứctướng hảo cùng trí tuệ của Như-Lai do vì mê mờ chân tánh và dấy khởi hoặc-nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế chúng con cần phải dứt trừ tâm phân biệt yêu ghét, mà khởi lòng cảm hối từ bi, để tìm phương tiện độ mình cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Cũng nên nhận rõ rằng Từ-Bi khác với Ái Kiến. Ái kiến là lòng thương yêu còn chấp luyến trên hình thức, trên tình cảm và tâm phân biệt, cho nên kết quả là bị sợi dây tình ái buộc ràng.

Từ bi là lòng xót thương cứu độ mà không phân biệt chấp trước, và xa lià mọi hình tướng. Tâm từ bi thể hiện dưới nhiều mặt, nên kết quả được an vui giải thoátphước huệ càng tăng thêm.

Muốn cho tâm từ bi được thêm rộng lớn thì phải xét từ nổi khổ của chính mình mà cảm thông đến các nổi khổ khó khăn khó chịu của kẻ khác, tự nhiên sanh ra lòng xót thương cứu vớt, niệm từ bi của Bồ-đề-tâm từ đó sẽ phát ra.

Trong kinh HOA NGHIÊM, Ngài PHỔ HIỀN Bồ tát đã khai khị rằng :

Bồ tát quán sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc mà thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật Pháp mà khởi đại bi...

Ðã phát đại bi tâm thì tất phải phát vô thượng Bồ-đề-tâm , thề nguyền cứu độ. Vậy thì lòng đại từ bi là lòng đại bồ đề phải dung thông nhau. Cho nên, phát từ bi tâm tức là phát vô thượng bồ-đề-tâm. Dùng lòng đại bi như thế mà niệm Phật và sống đạo mới gọi là phát Bồ-đề-tâm .

Ðiểm thứ tư : HOAN HỶ TÂM

Ðã có xót thương thì phải thể hiện lòng xót thương áy qua tâm hoan hỷ, hoan hỷ gồm có hai thứ : Tùy hỷhỷ xả.

Tùy hỷ là khi thấy trên từ chư Phật và thánh nhân, dưới cho đến các loại chúng sanh có làm được công đức gì dù lớn dù nhỏ, đều cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh, thành công, an ổn cũng sanh ra ý niệm vui vẻ, mừng giùm cho họ.

Hỷ xả là dù có chúng sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy hiểm độc, tổn hại cho mình, đều cũng an nhẫn, vui vẻ mà bỏ qua.

 Lòng tùy hỷ sẽ trừ được các chướng ngại của sự ganh ghét nhỏ nhen. Lòng hỷ xã sẽ giải trừ được chướng ngại của sự hận thù báo phục. Bởi vì tâm hoan hỷ không ngoài sự giác ngộthể hiện, nên đó chính là lòng bồ đề.

Dùng lòng hoan hỷ như thế mà niệm Phật, mới gọi là phát bồ đề tâm

Ðiểm thứ năm : SÁM NGUYỆN TÂM

Trong kiếp sống luân hồi dằng dặc lâu xa, mọi loài chúng sanh thường đổi thay hình dạng và làm quyến thuộc lẫn nhau. Nhưng vì đệ tử chúng con mê mờ lầm lạc, từ vô thủy cho đến ngày nay, do tâm chấp ngã chỉ muốn lợi mình, nên đã từng làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên ác nghiệp Thậm chí đến chư Phật và thánh nhân, vì tâm đại bihiện ra nơi đời để thuyết pháp cứu độ tất cả các loài, trong ấy có cả chúng con- vậy mà đối với ngôi Tam-Bảo, chúng con đã từng sanh lòng vong ân hủy phá.

Ngày nay biết được lỗi lầm của mình, đệ tử chúng con vô cùng hổ thẹnăn năn, xin chí thành sám hối cả ba nghiệp thân khẩu ý.

Ngay cả đức Di-Lặc Bồ tát dù đã chứng ngôi vị Bất-Thoái, vì muốn mau đắc quả Phật mà mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy chúng con xin đem thân nghiệp kính lễ Tam-Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu mong được tiêu trừ, và đem ý nghiệp thành khẩn ăn năn, thề không tái phạm.

Sau khi sám hối, chúng con xin dứt hẳn tâm nhơ và hạnh ác, không còn cho tiếp tục tái phạm nữa, để đi đến chỗ tâm và cảnh đều KHÔNG, đó mới thật là sám hối chân chánh. Lại phải phát nguyện rằng: Nguyện hưng long ngôi Tam-Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh , nguyện hoằng truyền pháp môn Niệm Phật – để chuộc lại lỗi xưa và đền đáp bốn ơn nặng, đó là ơn Tam-Bảo, ơn cha mẹ, ơn sư trưởng cùng thiện hữu trí thức, cuối cùng là ơn của tất cả chúng sanh .

Ðiểm thứ sáu : BẤT THOÁI TÂM

Dù đã sám hối, phát nguyện tu hành nhưng nghiệp hoặcma chướng không dễ gì dứt, và sự lập bồi công đức không dễ gì thành tựu. Mà con đường hồ đề đi đến quả viên giác xa vời vợi lại đầy cam go chướng ngại. Ngài XÁ LỢI PHẤT trong tiền kiếp chứng đến ngôi lục trụ, phát đại bồ đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ để khoét một con mắt cho người ngoại đạo, bị họ không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên. Ngài liền thối thất đại thừa tâm.

Như vậy, muốn giữ vững tâm nguyện, là điều không phải dễ dàng. Ðệ tử chúng con chỉ vì muốn đạo tâm không thối chuyển thì phải lập nên thệ nguyện thật kiên cố.

Ðệ tử chúng con thề rằng : thân nầy dẫu chịu vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm vào điều ác, mà thối thất trên bước tu hành. Dùng lòng bất thoái chuyển như thế mà niệm Phật, mới gọi là phát vô thượng Bồ-Ðề tâm.

Ðó là sáu yếu điểm bắt buộc phải có của người phát vô thượng bồ đề tâm. Nếu không dựa vào sáu điểm ấy để lập chí tu hành thì dù nói phát tâm, cũng chỉ là nói suông mà thôi, không thể nào đi đến Phật quả. Trước mắt chúng con chỉ có hai con đường : luân hồigiải thoát. Ðường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đều đi lần lần đến chỗ sáng suốt an vui. Ðường luân hồi dù được tạm hưởng phước báo nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ, ác đạo, sự khổ vô biên không biết đến kiếp nào mới ra khỏi.

Vì vậy, mà đệ tử chúng con quyết chí niệm Phật suốt đời, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà phát vô thượng bồ đề tâm mà hoàn thành Phật-Ðạo. Bởi lẽ muốn sớm chứng đắc Phật quả, muốn thành tựu bồ đề tâm nguyện, mà chúng con phải đốc lòng cầu vãng sanh cực lạc- cũng như phải niệm Phật chuyên cần.

 

NHỮNG HUẤN THỊ VỀ bồ đề tâm

 

kinh HOA NGHIÊM có dạy rằng :

Nầy thiện nam tử! Bậc Bồ-tát phát lòng vô thượng bồ đề là : khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn cầu Nhất Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rời các loài hữu tình, mặc áo giáp kiên thệ để cầu bát nhã ba-la-mật. Khởi lòng không siểm dối với vì cầu được trí Như-Thật. Khởi lòng thật hành y như lời nói, để tu đạo Bồ-tát. Khởi lòng không dối đối với chư Phật vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như-Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhất Thiết Trí cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không ngừng nghỉ. Bồ-tát dùng những công đức Bồ đề tâm nhiều như vi-trần-số cõi Phật như thế-nên được sanh vào nhà Như-Lai.

Nầy thiện nam tử! Như ngươi học bắn trước hết phải tập thế đứng, rồi sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ-tát muốn học đạo Nhất Thiết Trí của Như-Lai, trước hết phải an trụ nơi Bồ đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật- Pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ-tát tuy mới phát Bồ đề tâm tu bồ tát hạnh, nhưng tất cả bậc kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải nể vì kính trọng.

Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song đã có đầy đủ tướng trạng của vua, mà các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chổ xuất sanh tôn quý. Cũng thế, Bồ-tát tuy đối với các nghiệp phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ-đề, hàng nhị thừa không thể sánh hàng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhất.

Thiện nam tử! Như người máy bằng gỗ nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt động. Cũng thế Bồ-tát nếu thiếu Bồ đề tâm thì các hạnh lành đều bị phân tán, không thể thành tực tất cả Phật-Pháp.

Thiện nam tử! Như chất kim cương thì tất cả mọi vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá hoại tất cả vật khác, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ đề tâm của Bồ-tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp giáo hóa chúng sanh , tu các khổ hạnh, việc hàng nhị thừa không thể làm mà Bồ-tát đều làm đuợc, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi giảm hư.

PHỔ HIỀN Bồ-tát dạy rằng :

Thiện nam tử! Bồ-tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ nên phát bồ-đề tâm. Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì đem lại Phật-Trí cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy của Như-Lai khiến chư Phật hoan hỷ nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn thấy sắc thântướng hảo của tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn nhập vào trí tuệ rộng lớn của tất cả chư Phật nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn hiển hiện các Ðức, Lực, Vô-Úy của chư Phật nên phát bồ-đề tâm .

Ðệ tử chúng con vẫn nhận thức tất rõ rằng : nẻo luân hồi có quá nhiều chướng nạn, nếu chưa chứng quả Vô-Sanh thì khi chuyển sang kiếp sống khác ắt dễ bị hôn mê sa đọa.

Cho nên, muốn bảo đảm cái tâm vô-thượng bồ-đề không bị thối thất và để dễ dàng thành mãn chí nguyện độ sanh, chúng con phải gấp rút thanh toán vấn đề Sống Chết bằng cách cầu vãng sanh cõi Cực-Lạc.

Như vậy, nhờ sự giáo huấn của đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni, nhờ oai lực vĩ đại của bản nguyện A-Di-Ðà, mà từ nay chúng con đã biết rõ Niệm Phật thì phải phát vô thượng Bồ đề tâm.

Với tấm lòng tri ân tha thiết và chân thành, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy yđảnh lễ:

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật .

Nam mô Ðại từ Ðại bi A-Di-Ðà Phật vị đạo sư tiếp dẫn vãng sanh Cực-Lạc.

Nam mô Cứu khổ cứu nạn Ðại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ tát.

Nam mô Ðại hùng Ðại lực Ðại thế chí Bồ tát.

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 268)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 520)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 508)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 481)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 547)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 343)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 463)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 805)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1151)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1464)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1181)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1113)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2318)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1515)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1791)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2187)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1904)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2610)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4759)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2644)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6327)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3260)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3057)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2908)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3689)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3187)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8096)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2848)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8511)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4412)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8144)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6735)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11214)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22838)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5262)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11765)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11392)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12591)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34627)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32775)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22187)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12527)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11869)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10396)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10863)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11816)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11719)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10946)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10729)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11403)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7202)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6542)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7233)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5736)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6436)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6022)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9388)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5915)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5895)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5643)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant