Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10107)
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến
Đối thoại 3 – Ngăn chặn Sự Xấu xa
Đối thoại 4 – Thức dậy của Năng lượng
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng
Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là
Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào
Đối thoại 9 – Thời gian và Sự Thoái hóa
Đối thoại 10 – Chết và Sống
Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết

Đối thoại 1

NGỌN LỬA CỦA ĐAU KHỔ

New Delhi, ngày 12 tháng 12 năm 1970

 

C

húng ta đang dạo bộ trong một ngôi vườn thoáng đãng gần một khách sạn to lớn. Có một dải xanh sẫm vàng trong bầu trời phía tây và tiếng ồn của những chiếc xe buýt, xe cộ đang chạy qua. Có những cây non tươi tốt đầy hứa hẹn, được tưới nước hàng ngày. Chúng vẫn còn đang tăng trưởng, đang sáng tạo những ngôi vườn và một con chim đang vẫy cánh trong bầu trời, bay lượn vùn vụt vòng vòng trước khi bổ nhào xuống quả đất; và ở phía đông, mặt trăng đang từ từ tròn trịa. Điều gì đẹp đẽ không là những sự việc này nhưng, sự trống không vô hạn dường như ôm trọn quả đất. Điều gì đẹp đẽ là người đàn ông nghèo khổ gầm đầu xuống đất, đang mang một chai dầu hôi nhỏ.

Krishnamurti: Đau khổ có nghĩa gì trong quốc gia này? Những con người trong quốc gia này gặp gỡ đau khổ như thế nào? Họ chạy trốn đau khổ qua sự giải thích về nghiệp lực? Cái trí ở Ấn độ vận hành như thế nào khi nó gặp gỡ đau khổ? Người Phật giáo gặp gỡ nó trong một cách, người Thiên chúa giáo trong một cách khác. Cái trí Ấn giáo gặp gỡ nó như thế nào? Nó kháng cự đau khổ, hay tẩu thoát đau khổ? Hay cái trí Ấn giáo lý luận nó?

Người hỏi P: Liệu thực sự có nhiều cách gặp gỡ đau khổ? Đau khổ là sự buồn bã – buồn bã vì ai đó chết, buồn bã vì chia ly. Liệu có thể gặp gỡ đau khổ này trong những phương cách khác nhau?

Krishnamurti: Có nhiều cách tẩu thoát nhưng chỉ có một cách duy nhất để gặp gỡ đau khổ. Thật ra, những tẩu thoát mà chúng ta quen thuộc là những phương cách để lẩn trốn sự kinh hoàng của đau khổ. Bạn thấy, chúng ta sử dụng những giải thích để gặp gỡ đau khổ nhưng những giải thích này không giải đáp được nghi vấn. Cách duy nhất để gặp gỡ đau khổhiện diện mà không có bất kỳ kháng cự, hiện diện mà không có bất kỳ chuyển động thoát khỏi đau khổ, cả bên ngoài lẫn bên trong, vẫn còn trọn vẹn cùng đau khổ, mà không muốn thoát khỏi nó.

P: Bản chất của đau khổ là gì?

Krishnamurti:đau khổ cá nhân, đau khổ hiện diện khi có sự mất mát một ai đó mà bạn thương yêu, sự cô độc, sự chia ly, sự lo âu cho người khác. Cùng cái chết, cũng có cảm giác rằng người khác đã không còn hiện diện, và có quá nhiều điều mà anh ấy đã mong muốn thực hiện. Tất cả điều này là đau khổ cá nhân. Rồi thì có người đàn ông đó ăn mặc rách nát, bẩn thỉu, đầu cúi gầm; ông ấy dốt nát, ông ấy không chỉ dốt nát về hiểu biết sách vở, nhưng sâu thẳm, thực sự dốt nát. Cảm giác mà người ta có cho người đàn ông đó không phải là tự-thương xót, cũng không phải có một đồng hóa cùng người đàn ông đó; không phải rằng bạn được đặt vào một vị trí tốt đẹp hơn ông ấy và vì vậy bạn cảm thấy thương hại ông ấy, nhưng bên trong người ta có một ý thức của trọng lượng không-thời gian của đau khổ trong con người. Đau khổ này không có một chút cá nhân nào về nó. Nó hiện diện.

P: Tại sao anh đang nói, chuyển động của đau khổ đã và đang vận hành bên trong tôi. Không có nguyên nhân tức khắc cho đau khổ này nhưng dường như nó giống như cái bóng, luôn luôn theo cùng con người. Anh ấy sống, anh ấy thương yêu, anh ấy hình thành những quyến luyến và mọi thứ kết thúc. Dù điều gì anh nói có thực sự đến chừng nào, trong việc này có một vô hạn của đau khổ. Làm thế nào nó sẽ kết thúc? Dường như không có đáp án. Ngày hôm trước anh đã nói trong đau khổ là toàn chuyển động của đam mê. Nó có nghĩa gì?

Krishnamurti: Liệu có một liên quan giữa đau khổ và đam mê? Tôi không hiểu đau khổ là gì. Liệu có một việc như đau khổ mà không có nguyên nhân. Chúng ta biết đau khổ mà là nguyên nhânhậu quả. Người con trai của tôi chết; trong đó được bao hàm sự đồng hóa cùng người con trai của tôi, tôi muốn cậu ấy là cái gì đó mà tôi không là, tôi tìm kiếm sự tiếp tục qua cậu ấy; và khi cậu ấy chết, tất cả điều đó bị khước từ và tôi phát giác mình không còn mọi hy vọng nào. Trong đó có tự-thương xót, sợ hãi; trong đó có buồn bã mà là nguyên nhân của đau khổ. Đây là số mạng của mọi người. Đây là điều gì chúng ta có ý qua từ ngữ đau khổ.

 Cũng có đau khổ của thời gian, đau khổ của dốt nát, không phải sự dốt nát của hiểu biết nhưng sự dốt nát của tình trạng bị quy định hủy hoại riêng của người ta. Đau khổ vì không hiểu rõ về chính người ta; đau khổ vì không hiểu rõ về vẻ đẹp tại chiều sâu của sự hiện diện của người ta và vượt khỏi nó. Liệu chúng ta có thấy rằng khi chúng ta lẩn trốn đau khổ qua những hình thức giải thích khác nhau, thực sự chúng ta đang phung phí một việc lạ thường đang xảy ra?

P: Vậy thì người ta làm gì?

Krishnamuri: Bạn đã không trả lời câu hỏi của tôi, ‘Liệu có, một đau khổ mà không có nguyên nhân và hậu quả?’ Chúng ta biết đau khổ và chuyển động rời khỏi đau khổ.

P: Anh đã nói về đau khổ không-dính dáng nguyên nhânhậu quả. Liệu có một trạng thái như thế?

Krishnamurti: Con người đã sống cùng đau khổ từ thời gian không thể nhớ được. Anh ấy chưa bao giờ biết làm thế nào để giải quyết được nó. Thế là anh ấy hoặc tôn sùng nó hoặc lẩn trốn nó. Cả hai đều là cùng chuyển động. Cái trí của tôi không thực hiện hai việc này, nó cũng không sử dụng đau khổ như một phương tiện của thức dậy. Vậy thì điều gì xảy ra?

P: Tất cả những sự việc khác là những sản phẩm thuộc những giác quan của chúng tôi. Đau khổ còn nhiều hơn thế. Nó là một chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tôi đang hỏi bạn sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì.

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tình yêu là gì và đau khổ là gì?

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim, một cái được nhận dạng như hân hoan và cái còn lại như đau khổ.

Krishnamurti: Tình yêu là vui thú? Bạn sẽ nói tình yêu và vui thú là giống nhau? Nếu không hiểu rõ bản chất của vui thú, không có chiều sâu để hân hoan. Bạn không thể mời mọc hân hoan. Hân hoan xảy ra. Đang xảy ra có thể bị biến thành vui thú. Khi vui thú đó bị khước từ, có bắt đầu của đau khổ.

P: Tại một mức độ nó là như thế, nhưng nó không là như thế tại một mức độ khác.

Krishnamurti: Như chúng ta đã nói, hân hoan không là sự việc để được mời mọc. Nó xảy ra. Vui thú tôi có thể mời mọc, vui thú tôi có thể theo đuổi. Nếu vui thú là tình yêu, vậy thì tình yêu có thể được vun quén.

P: Chúng ta biết vui thú không là tình yêu. Vui thú có lẽ là một thể hiện của tình yêu nhưng nó không là tình yêu. Cả vui thú lẫn tình yêu đều nảy sinh từ cùng cái nguồn.

 

Krishnamurti: Tôi đã hỏi sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì? Liệu có thể có tình yêu nếu có đau khổđau khổ là tất cả những sự việc mà chúng ta đã nói? 

P: Tôi sẽ nói ‘có’.

Krishnamurti: Trong đau khổ, có một nhân tố của tách rời, của phân chia. Liệu không có quá nhiều tự-thương xót trong đau khổ, hay sao? Sự liên quan của tất cả điều này với tình yêu là gì? Tình yêu có sự lệ thuộc? Tình yêu có chất lượng của ‘tôi’ và ‘bạn’?

P: Nhưng anh đã nói về đam mê...

Krishnamurti: Khi không có chuyển động của tẩu thoát khỏi đau khổ vậy thì tình yêu hiện diện. Đam mê là ngọn lửa của đau khổ và ngọn lửa đó chỉ có thể được thức dậy khi không có tẩu thoát, không có kháng cự. Mà có nghĩa gì? – Mà có nghĩa, đau khổ không có trong nó chất lượng của phân chia.

P: Trong ý nghĩa đó, liệu trạng thái đó của đau khổ có bất kỳ khác biệt nào với trạng thái của tình yêu? Đau khổ là buồn bã. Anh nói khi trong buồn bã đó không có kháng cự, không có chuyển động thoát khỏi buồn bã, ngọn lửa của đam mê trỗi dậy. Lạ lùng thay trong những kinh điển cổ xưa, kama (tình yêu), agni (lửa), và yama (chết) được giải thíchgiống hệt nhau; chúng được đặt trên cùng mức độ; tất cả chúng đều giống hệt; chúng sáng tạo, rửa sạch và hủy diệt để sáng tạo lại. Phải có một kết thúc.

Krishnamurti: Bạn thấy, chính xác đó là nó. Sự liên hệ của một cái trí mà đã hiểu rõ đau khổvì vậy sự kết thúc của đau khổ là gì? Chất lượng của cái trí mà không còn sợ hãi sự kết thúc, mà là chết, là gì?

 Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8683)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9126)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10044)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10230)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11084)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9054)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9520)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8049)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9325)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11336)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8719)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9085)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17516)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12207)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26139)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9563)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9435)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10002)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11384)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9730)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10270)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13702)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16001)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15635)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18672)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19105)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18928)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13868)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19219)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11735)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23206)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19279)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18339)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8733)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27114)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20000)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15326)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15528)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26855)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16419)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19451)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19815)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19969)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18657)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32536)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20302)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45979)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6890)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22771)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24410)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39295)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20571)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19924)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40826)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18663)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18491)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9215)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14235)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18213)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17696)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant