Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10109)
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970
Đối thoại 1 – Ngọn lửa của Đau khổ
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến
Đối thoại 3 – Ngăn chặn Sự Xấu xa
Đối thoại 4 – Thức dậy của Năng lượng
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng
Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là
Đối thoại 8 – Chuyển động Rút vào
Đối thoại 9 – Thời gian và Sự Thoái hóa
Đối thoại 10 – Chết và Sống
Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết

Đối thoại 1

NGỌN LỬA CỦA ĐAU KHỔ

New Delhi, ngày 12 tháng 12 năm 1970

 

C

húng ta đang dạo bộ trong một ngôi vườn thoáng đãng gần một khách sạn to lớn. Có một dải xanh sẫm vàng trong bầu trời phía tây và tiếng ồn của những chiếc xe buýt, xe cộ đang chạy qua. Có những cây non tươi tốt đầy hứa hẹn, được tưới nước hàng ngày. Chúng vẫn còn đang tăng trưởng, đang sáng tạo những ngôi vườn và một con chim đang vẫy cánh trong bầu trời, bay lượn vùn vụt vòng vòng trước khi bổ nhào xuống quả đất; và ở phía đông, mặt trăng đang từ từ tròn trịa. Điều gì đẹp đẽ không là những sự việc này nhưng, sự trống không vô hạn dường như ôm trọn quả đất. Điều gì đẹp đẽ là người đàn ông nghèo khổ gầm đầu xuống đất, đang mang một chai dầu hôi nhỏ.

Krishnamurti: Đau khổ có nghĩa gì trong quốc gia này? Những con người trong quốc gia này gặp gỡ đau khổ như thế nào? Họ chạy trốn đau khổ qua sự giải thích về nghiệp lực? Cái trí ở Ấn độ vận hành như thế nào khi nó gặp gỡ đau khổ? Người Phật giáo gặp gỡ nó trong một cách, người Thiên chúa giáo trong một cách khác. Cái trí Ấn giáo gặp gỡ nó như thế nào? Nó kháng cự đau khổ, hay tẩu thoát đau khổ? Hay cái trí Ấn giáo lý luận nó?

Người hỏi P: Liệu thực sự có nhiều cách gặp gỡ đau khổ? Đau khổ là sự buồn bã – buồn bã vì ai đó chết, buồn bã vì chia ly. Liệu có thể gặp gỡ đau khổ này trong những phương cách khác nhau?

Krishnamurti: Có nhiều cách tẩu thoát nhưng chỉ có một cách duy nhất để gặp gỡ đau khổ. Thật ra, những tẩu thoát mà chúng ta quen thuộc là những phương cách để lẩn trốn sự kinh hoàng của đau khổ. Bạn thấy, chúng ta sử dụng những giải thích để gặp gỡ đau khổ nhưng những giải thích này không giải đáp được nghi vấn. Cách duy nhất để gặp gỡ đau khổhiện diện mà không có bất kỳ kháng cự, hiện diện mà không có bất kỳ chuyển động thoát khỏi đau khổ, cả bên ngoài lẫn bên trong, vẫn còn trọn vẹn cùng đau khổ, mà không muốn thoát khỏi nó.

P: Bản chất của đau khổ là gì?

Krishnamurti:đau khổ cá nhân, đau khổ hiện diện khi có sự mất mát một ai đó mà bạn thương yêu, sự cô độc, sự chia ly, sự lo âu cho người khác. Cùng cái chết, cũng có cảm giác rằng người khác đã không còn hiện diện, và có quá nhiều điều mà anh ấy đã mong muốn thực hiện. Tất cả điều này là đau khổ cá nhân. Rồi thì có người đàn ông đó ăn mặc rách nát, bẩn thỉu, đầu cúi gầm; ông ấy dốt nát, ông ấy không chỉ dốt nát về hiểu biết sách vở, nhưng sâu thẳm, thực sự dốt nát. Cảm giác mà người ta có cho người đàn ông đó không phải là tự-thương xót, cũng không phải có một đồng hóa cùng người đàn ông đó; không phải rằng bạn được đặt vào một vị trí tốt đẹp hơn ông ấy và vì vậy bạn cảm thấy thương hại ông ấy, nhưng bên trong người ta có một ý thức của trọng lượng không-thời gian của đau khổ trong con người. Đau khổ này không có một chút cá nhân nào về nó. Nó hiện diện.

P: Tại sao anh đang nói, chuyển động của đau khổ đã và đang vận hành bên trong tôi. Không có nguyên nhân tức khắc cho đau khổ này nhưng dường như nó giống như cái bóng, luôn luôn theo cùng con người. Anh ấy sống, anh ấy thương yêu, anh ấy hình thành những quyến luyến và mọi thứ kết thúc. Dù điều gì anh nói có thực sự đến chừng nào, trong việc này có một vô hạn của đau khổ. Làm thế nào nó sẽ kết thúc? Dường như không có đáp án. Ngày hôm trước anh đã nói trong đau khổ là toàn chuyển động của đam mê. Nó có nghĩa gì?

Krishnamurti: Liệu có một liên quan giữa đau khổ và đam mê? Tôi không hiểu đau khổ là gì. Liệu có một việc như đau khổ mà không có nguyên nhân. Chúng ta biết đau khổ mà là nguyên nhânhậu quả. Người con trai của tôi chết; trong đó được bao hàm sự đồng hóa cùng người con trai của tôi, tôi muốn cậu ấy là cái gì đó mà tôi không là, tôi tìm kiếm sự tiếp tục qua cậu ấy; và khi cậu ấy chết, tất cả điều đó bị khước từ và tôi phát giác mình không còn mọi hy vọng nào. Trong đó có tự-thương xót, sợ hãi; trong đó có buồn bã mà là nguyên nhân của đau khổ. Đây là số mạng của mọi người. Đây là điều gì chúng ta có ý qua từ ngữ đau khổ.

 Cũng có đau khổ của thời gian, đau khổ của dốt nát, không phải sự dốt nát của hiểu biết nhưng sự dốt nát của tình trạng bị quy định hủy hoại riêng của người ta. Đau khổ vì không hiểu rõ về chính người ta; đau khổ vì không hiểu rõ về vẻ đẹp tại chiều sâu của sự hiện diện của người ta và vượt khỏi nó. Liệu chúng ta có thấy rằng khi chúng ta lẩn trốn đau khổ qua những hình thức giải thích khác nhau, thực sự chúng ta đang phung phí một việc lạ thường đang xảy ra?

P: Vậy thì người ta làm gì?

Krishnamuri: Bạn đã không trả lời câu hỏi của tôi, ‘Liệu có, một đau khổ mà không có nguyên nhân và hậu quả?’ Chúng ta biết đau khổ và chuyển động rời khỏi đau khổ.

P: Anh đã nói về đau khổ không-dính dáng nguyên nhânhậu quả. Liệu có một trạng thái như thế?

Krishnamurti: Con người đã sống cùng đau khổ từ thời gian không thể nhớ được. Anh ấy chưa bao giờ biết làm thế nào để giải quyết được nó. Thế là anh ấy hoặc tôn sùng nó hoặc lẩn trốn nó. Cả hai đều là cùng chuyển động. Cái trí của tôi không thực hiện hai việc này, nó cũng không sử dụng đau khổ như một phương tiện của thức dậy. Vậy thì điều gì xảy ra?

P: Tất cả những sự việc khác là những sản phẩm thuộc những giác quan của chúng tôi. Đau khổ còn nhiều hơn thế. Nó là một chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tôi đang hỏi bạn sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì.

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim.

Krishnamurti: Tình yêu là gì và đau khổ là gì?

P: Cả hai đều là những chuyển động của quả tim, một cái được nhận dạng như hân hoan và cái còn lại như đau khổ.

Krishnamurti: Tình yêu là vui thú? Bạn sẽ nói tình yêu và vui thú là giống nhau? Nếu không hiểu rõ bản chất của vui thú, không có chiều sâu để hân hoan. Bạn không thể mời mọc hân hoan. Hân hoan xảy ra. Đang xảy ra có thể bị biến thành vui thú. Khi vui thú đó bị khước từ, có bắt đầu của đau khổ.

P: Tại một mức độ nó là như thế, nhưng nó không là như thế tại một mức độ khác.

Krishnamurti: Như chúng ta đã nói, hân hoan không là sự việc để được mời mọc. Nó xảy ra. Vui thú tôi có thể mời mọc, vui thú tôi có thể theo đuổi. Nếu vui thú là tình yêu, vậy thì tình yêu có thể được vun quén.

P: Chúng ta biết vui thú không là tình yêu. Vui thú có lẽ là một thể hiện của tình yêu nhưng nó không là tình yêu. Cả vui thú lẫn tình yêu đều nảy sinh từ cùng cái nguồn.

 

Krishnamurti: Tôi đã hỏi sự liên quan giữa đau khổ và tình yêu là gì? Liệu có thể có tình yêu nếu có đau khổđau khổ là tất cả những sự việc mà chúng ta đã nói? 

P: Tôi sẽ nói ‘có’.

Krishnamurti: Trong đau khổ, có một nhân tố của tách rời, của phân chia. Liệu không có quá nhiều tự-thương xót trong đau khổ, hay sao? Sự liên quan của tất cả điều này với tình yêu là gì? Tình yêu có sự lệ thuộc? Tình yêu có chất lượng của ‘tôi’ và ‘bạn’?

P: Nhưng anh đã nói về đam mê...

Krishnamurti: Khi không có chuyển động của tẩu thoát khỏi đau khổ vậy thì tình yêu hiện diện. Đam mê là ngọn lửa của đau khổ và ngọn lửa đó chỉ có thể được thức dậy khi không có tẩu thoát, không có kháng cự. Mà có nghĩa gì? – Mà có nghĩa, đau khổ không có trong nó chất lượng của phân chia.

P: Trong ý nghĩa đó, liệu trạng thái đó của đau khổ có bất kỳ khác biệt nào với trạng thái của tình yêu? Đau khổ là buồn bã. Anh nói khi trong buồn bã đó không có kháng cự, không có chuyển động thoát khỏi buồn bã, ngọn lửa của đam mê trỗi dậy. Lạ lùng thay trong những kinh điển cổ xưa, kama (tình yêu), agni (lửa), và yama (chết) được giải thíchgiống hệt nhau; chúng được đặt trên cùng mức độ; tất cả chúng đều giống hệt; chúng sáng tạo, rửa sạch và hủy diệt để sáng tạo lại. Phải có một kết thúc.

Krishnamurti: Bạn thấy, chính xác đó là nó. Sự liên hệ của một cái trí mà đã hiểu rõ đau khổvì vậy sự kết thúc của đau khổ là gì? Chất lượng của cái trí mà không còn sợ hãi sự kết thúc, mà là chết, là gì?

 Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14739)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46258)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21081)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23452)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18945)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15435)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46709)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42656)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13125)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33283)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51299)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6625)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29384)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34430)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23643)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30420)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30092)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32728)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10578)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58693)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11391)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31028)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25335)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22811)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17698)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45766)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17789)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12288)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28302)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34739)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26357)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13215)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28971)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18785)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13862)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30025)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22851)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12554)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant