Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Kết thúc cái đã được biết

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6759)
18. Kết thúc cái đã được biết

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

18

Kết thúc cái đã được biết

T

háng hai khi K quay lại Ojai, cùng năng lượng mới mẻ vô biên, anh cảm thấy anh ‘không đang được sử dụng’ đầy đủ. ‘Anh sẽ làm gì ở đây trong hai tháng?’ anh hỏi Mary. ‘Anh đang bị lãng phí.’ Như nó đã xảy ra, anh có nhiều việc phải làm liên quan đến trường Oak Grove mới, nói chuyện cùng giáo viên và phụ huynh. Nhiều phụ huynh đã chuyển đến Ojai Valley để cho con cái của họ có thể theo học ở trường và họ có nhiều đóng góp hơn trong việc điều hành ngôi trường nếu nó là một trường nội trú. Mark Lee, một người Mỹ, đã dạy học tại Rishi Valley và có một người vợ Ấn độ, là Hiệu trưởng đầu tiên của trường.

Chắc chắn K đã không lãng phí khi David Bohm đến ở lại vào tháng ba và thực hiện tám bàn luận lâu cùng anh. Những bàn luận này, cùng năm bàn luận khác mà sau đó diễn ra tại Brockwood, được xuất bản năm 1985 dưới tựa đề The Ending of Time Sự Kết thúc của Thời gian, một trong những quyển quan trọng nhất của Krishnamurti bởi vì nó đánh thức sự quan tâm của một công chúng mới. Những bàn luận, cùng những câu hỏi và những trả lời ngắn của chúng, không thích hợp cho sự trích dẫn. Sự phát triển của những ý tưởng trong chúng rất từ từ. Chúng nói về sự kết thúc của tư tưởng cũng như sự kết thúc của thời gian – đó là thời gian thuộc tâm lýtư tưởng mà là quá khứ. Tất cả mọi điều chúng ta đã học hành, tất cả mọi điều chúng ta là, toàn nội dung ý thức của chúng ta, là quá khứ, được lưu trữ trong ký ức của chúng ta như tư tưởng, và nhồi nhét chặt vào bộ não bởi quá khứ có nghĩa rằng không có thấu hiểu trung thực bởi vì mọi thứ được nhìn thấy qua một đám mây dày dặc của tư tưởng mà phải luôn luôn bị giới hạn bởi cái tôi. K hỏi, ‘Liệu có thể cho thời gian kết thúc – toàn ý tưởng của thời gian như quá khứ để cho không còn ngày mai gì cả?’ Nếu bộ não vẫn còn trong màn đêm của tự cho mình là trung tâm, nó tự làm tổn hại bởi hậu quả của xung đột. Liệu sự thoái hóa của những tế bào não và tình trạng lão suy có thể được ngăn cản? K gợi ý rằng qua sự thấu triệt những tế bào não có thể thay đổi phần vật chất, và hành động trong một cách trật tự mà sẽ dẫn đến sự chữa trị những thiệt hại bị gây ra bởi tất cả những năm tháng vận hành sai trái.

Trong lời tựa cho một quyển sách mỏng chứa đựng hai đối thoại của thời gian sau giữa K và Bohm, Bohm giải thích điều này:

 

. . . rất xứng đáng khi nhận thấy rằng sự nghiên cứu hiện đại về bộ não và hệ thần kinh củng cố đáng kể cho câu phát biểu của Krishnamurti rằng sự thấu triệt có lẽ thay đổi những tế bào não. Ví dụ, bây giờ người ta biết rằng có những chất quan trọng trong cơ thể, những chất kích thích tố và truyền dẫn thần kinh, mà căn bản gây ảnh hưởng toàn sự vận hành của bộ não và hệ thần kinh. Những chất này phản ứng từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, đến điều gì một con người biết, đến điều gì anh ấy suy nghĩ, và đến tất cả điều này có nghĩa gì đối với anh ấy. Bây giờ, người ta đã kết luận rõ ràng rằng trong cách này những tế bào não và sự vận hành của chúng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi sự hiểu biết và những cảm xúc. Vẫn vậy, rất hợp lý khi kết luận rằng sự thấu triệt, mà phải xảy ra trong một trạng thái của cảm xúcnăng lượng thuộc tinh thần, có thể gây ảnh hưởng những tế bào não thậm chí trong một cách còn sâu sắc hơn nhiều.63

 

Mùa hè năm đó trên đường đi Gstaad, K đến khám tại Janker Clinic năm thứ ba. Chụp X-quang chỉ rõ rằng cục u mà anh cảm thấy dưới màng ngăn do bởi chứng sa ruột và không có gì nghiêm trọng. Tại họp mặt Brockwood sau Saanen, K được hỏi tại sao anh vẫn nói chuyện tại tuổi của anh. Anh trả lời: ‘Câu hỏi đó thường xuyên được đặt ra: “Tại sao ông tiếp tục sử dụng năng lượng của ông sau năm mươi năm khi dường như không ai thay đổi?” Tôi nghĩ khi người ta thấy cái gì đó đúng thực và tốt lành người ta muốn kể cho mọi người về nó, từ trìu mến, từ từ bi, từ tình yêu. Và nếu có những người không quan tâm thì điều đó cũng được thôi. Bạn có thể hỏi một bông hoa tại sao nó nở, tại sao nó có hương thơm? Cũng cùng lý do đó nên người nói nói chuyện.’

 Trong sáu năm cuối cùng thuộc sống của anh, K sẽ tiếp tục những chuyến đi, nói chuyện và bàn luận, mặc dù trên thực tế anh đã từ bỏ những phỏng vấn riêng. Vào tháng sáu năm1980 Mrs Radha Burnier, người K đã quen biết được nhiều năm và rất ưa thích, được bầu chọn làm Chủ tịch của Theosophical Society. Bà là con gái của N. Sri Ram, một chủ tịch cũ, và một cháu gái của Rukmini Arundale người đã tranh cử trong cuộc bầu cử. Vì lợi ích của bà, mùa đông đó K đồng ý viếng thăm Theosophicl Society khi anh ở Madras. Vì vậy, vào ngày 3 tháng mười một Radha Burnier đến đón anh ở Vasanta Vihar, và lần dầu tiên sau bốn mươi bảy năm anh vào cổng của khu Theosophy, nơi một dám đông người tụ họp để nghinh đón anh, và đi bộ qua những khuôn viên đến nhà của Radha trên bãi biển. Anh không nhớ bất kỳ việc gì về nơi này. Sau đó, suốt phần còn lại thuộc sống của anh những khi anh ở Vasanta Vihar, anh thường lái xe đến nhà của Radha mỗi buổi chiều và dạo bộ dọc theo bãi biển nơi anh đã được ‘phát hiện’.

 Ngày hôm sau K đi máy bay đến Sri Lanka nơi anh được mời nói chuyện và nơi anh đã không đến từ 1957. Đó là một viếng thăm đầy thành công; anh đã gặp Thủ tướng, được phỏng vấn trên truyền hình bởi Bộ trưởng Chính phủ và nói chuyện riêng suốt một tiếng đồng hồ với Tổng thống. Anh cũng thực hiện bốn nói chuyện trước công chúng được tham dự bởi rất nhiều người.

Sau đó tại Rishi Valley, K được nhập vào bởi những ủy viên từ tất cả ba Foundation, và vào ngày 20 tháng mười hai Mrs Gandhi, cùng Rajiv và vợ của anh ấy, đến ở lại một đêm, đến Madanapalle bằng máy bay trực thăng. Pupul Jayakar là người đồng tiếp khách cùng K. K và Mrs Gandhi đi dạo bộ cùng nhau rất lâu, có những người bảo vệ trang bị vũ khí núp sau những bụi cây.

Khi K cắt ngang sớm chuyến hành trình của anh tại Brockwood năm 1981, trên đường từ Ấn độ đến Ojai, đầy hào hứng anh kể cho chúng tôi về chuyến viếng thăm của Mrs Gandhi và sự tiếp đãi với tư cách VIP ở Sri Lanka. Anh có vẻ rất cảm kích về việc Tổng thống Sri Lanka muốn gặp anh. Đây là một trong những không bình thường lạ lùng của K, sự kính trọng của anh đối với những thành côngđịa vị học thức trong thế giới của những người khác; tuy nhiên anh ghê tởm bất kỳ ai khoe khoang về sự nổi tiếng của họ và biểu lộ những dấu hiệu của tự-quan trọng. Có vẻ anh không bao giờ suy nghĩ rằng những quà biếu tặng cho công việc của anh có lẽ đã bắt nguồn từ sự kinh doanh không lành mạnh nào đó mà anh sẽ rất xót xa nếu anh biết rõ về nó. Tuy nhiên, nếu không có những mâu thuẫn này trong bản tính của anh, anh sẽ chẳng gây hứng thú bao nhiêu và theo cá nhân cũng kém dễ thương lắm. Tại họp mặt Saanen năm 1981, K bị đau bao tử rất nặng, nhưng những thí nghiệm tại bệnh viện Saanen không tìm ra những nguyên nhân cho căn bệnh. Trước khi đi Ấn độ giống như mọi năm, người ta sắp xếp rằng anh nên thực hiện một giải phẫu ruột khi anh trở lại Ojai năm sau. Trên đường đến Gstaad bỗng nhiên anh nhờ Mart Zimbalist, người ở cùng anh, viết một quyển sách về anh – ở cùng anh như thế nào. Hai lần nữa, suốt vài năm kế tiếp, anh thường yêu cầu chị làm việc này – thậm chí nó chỉ có một trăm trang, viết một chút ít mỗi ngày. Người ta phải hy vọng rằng chị sẽ viết theo yêu cầu này bởi vì từ năm 1966 chị đã ở cùng anh nhiều hơn bất kỳ người nào khác. Chị luôn luôn ở cùng anh tại Gstaad, Brockwood, và bây giờ Ojai. Vanda Scaravella vẫn còn mở Chalet Tannegg cho anh với Fosca, nhưng Vanda sẽ trở lại Florence trong suốt họp mặt, và chỉ quay lại sau để đóng cửa căn nhà gỗ.

Vào tháng chín, K sẽ thay đổi chương trình hàng năm của anh một chút xíu bằng thực hiện hai nói chuyện ở Amsterdam nơi anh đã không nói chuyện từ mười năm. Đại sảnh RAI đông nghẹt người, khán giả tràn vào một sảnh kế cận có một máy truyền hình. Một vài người bạn từ nước Anh theo cùng anh. Trên đường đến nói chuyện lần thứ nhất trong xe hơi anh hỏi chúng tôi anh sẽ nói về vấn đề gì đây. Tôi hỏi anh, ‘Anh không có ý tưởng nào à?’ Anh trả lời, ‘Không, không ý tưởng nào cả.’ Khi hình bóng nhỏ nhắn của của anh xuất hiện, ngồi một mình trên cái bục thật to trên một cái ghế dựa cứng và không có cả cái bàn trước mặt anh, trong chừng mực nào đó, nó gây ra một cảm xúc mãnh liệt. Luôn luôn như thế anh hoàn toàn yên lặng trong một vài phút, nhìn khán giả từ bên này sang bên kia trong khi họ hoàn toàn sững lại và căng thẳng chờ đợi. Cuối cùng anh bắt đầu: ‘Bất hạnh thay chỉ có hai nói chuyện vì vậy rất cần thiết phải cô đọng điều gì chúng ta phải nói về toàn sự tồn tại.’ Tại thời gian này càng ngày anh càng đang nhấn mạnh rằng sự khác biệt giữa những con người chỉ rất hời hợt trên bề mặt. Anh giải thích điều này trong nói chuyện đầu tiên:

 

Nội dung của ý thức chúng ta là mảnh đất chung của tất cả nhân loại . . . một con người đang sống trong bất kỳ vùng đất nào của thế giới đều bị đau khổ, không chỉ phần thân thể mà còn cả phía bên trong. Anh ấy hoang mang, sợ hãi, rối loạn, lo âu, không có ý thức của an toàn sâu thẳm. Vì vậy ý thức của chúng ta đều chung đối với tất cả nhân loại . . . và vì vậy chúng ta không là những cá thể. Làm ơn hãy suy xét điều này. Chúng ta đã được giáo dục, được rèn luyện, thuộc tôn giáo cũng như học thức, để suy nghĩ rằng chúng ta là những cá thể, những linh hồn tách rời, tranh giành cho chúng ta, nhưng đây là một ảo tưởng . . . Chúng ta không là những thực thể tách rời cùng nội dung tâm lý tách rời, đang đấu tranh vì những kết quả; chúng ta, mỗi người chúng ta, thực sự là phần còn lại của nhân loại.

 

Trong cùng nói chuyện này anh dừng lại rất lâu về một đề tài khác mà anh đã trình bày trước kia và thường xuyên lặp lại trong những năm cuối cùng của anh – đang sống cùng chết:

 

Chết có nghĩa sự kết thúc của cái đã được biết. Nó có nghĩa sự kết thúc của các cơ quan thân thể, sự kết thúc của tất cả ký ức mà tôi là, bởi vì tôi không là gì cả ngoại trừ ký ức. Và tôi kinh hãi khi phải buông bỏ tất cả những thứ đó, mà có nghĩa chết. Chết có nghĩa sự kết thúc của tất cả những quyến luyến, đó là đang chết trong khi đang sống, không bị tách lìa bởi năm mươi năm hay như thế, đang chờ đợi một bệnh tật nào đó để kết thúc bạn. Nó là đang sống cùng tất cả sức sống, năng lượng, khả năng trí tuệ của bạn và cùng cảm thấy vô biên, và cùng thời điểm, để cho những kết luận nào đó, những cá tính, những trải nghiệm, những quyến luyến, những tổn thương nào đó, được kết thúc, được chết đi. Đó là, trong khi đang sống, cũng sống cùng chết. Vậy thì chết không là cái gì đó xa thật xa, chết không là cái gì đó tại khúc cuối của cuộc đời một người, bị gây ra bởi tai nạn, bệnh tật nào đó hay tuổi già, nhưng trái lại một kết thúc của tất cả những sự việc thuộc ký ức – đó là chết, một chết không tách rời khỏi đang sống.64

 

Điều gì anh thực sự đang yêu cầu những người nghe của anh thực hiệnbuông bỏ tất cả những quyến luyến của con người. Bao nhiêu người đã muốn làm như thế mặc dù họ có thể? Tuy nhiên càng ngày càng nhiều người khắp thế giới tiếp tục tham dự những nói chuyện của anh.

 K rất hạnh phúc khi ở Hà lan nơi anh đã trải qua quá nhiều thời gian lúc còn bé. Một buổi chiều anh lái xe đến thăm lại Castle Eerde, bây giờ là một trường học, và nơi anh đã không đến từ năm 1929. Lái xe qua những cánh rừng cây sồi đẹp anh tự hỏi, hơi hơi nghiêm túc, tại sao anh đã trao trả lại khu này. Tuy nhiên, khi anh đến lâu đài anh không chịu ra khỏi xe vì sợ bị nhận ra.

 Quay lại Ojai vào đầu năm 1982, sau những tháng cực nhọc thường lệ của anh ở Ấn độ, tháng hai K vào University of California Los Angeles Medical Center để giải phẫu sa ruột. Đây không là một ca mổ cấp cứu, nhưng người ta cảm thấy rằng nếu tình trạng bệnh tật bỗng nhiên tồi tệ hơn trong khi anh đi lại nó có lẽ sẽ trở nên rất nguy hiểm. Mary Zimbalist ở lại trên một cái ghế dài trong phòng của anh suốt bốn đêm anh ở bệnh viện. Ca mổ này cũng xảy ra trong một gây mê cột sống. Đó là một thử thách kinh khủng cho anh và khi thuốc gây mê giảm hiệu lực, cơn đau đớn trở nên cực mạnh và anh nói về ‘cái cửa mở toang’. Mary nhắc nhở anh đóng nó lại. Chiều tối đó anh nói với chị, ‘Nó rất gần. Anh không biết liệu anh có đủ sức mạnh để đóng cái cửa,’ nhưng ngay thời điểm đó anh ngồi bật dậy trong giường, đọc một quyển truyện giật gân.

 Tiếp theo một khám tổng quát tại UCLA Medical Center phát giác rằng lượng đường trong máu của K rất cao, và anh bị bắt buộc thực hiện một ăn kiêng theo bệnh tiểu đường, sau đó một chuyến thăm bác sĩ nhãn khoa đã chẩn đoán những khởi đầu của bệnh đục nhân mắt trong cả hai mắt và một đe dọa của bệnh tăng nhãn áp trong mắt trái, do vậy anh được giao thuốc nhỏ mắt. Dẫu vậy, xét chung, anh được nhận xét là rất khỏe mạnh cho tuổi tác của anh.

 Cuối tháng ba, K thực hiện hai nói chuyện ở New York, nơi lần cuối anh đã nói chuyện vào năm 1974, nhưng lần này chúng được thực hiện tại Carnegie Hall, chứa được gần 3000 người. Mọi chỗ ngồi đều được sử dụng. Được phỏng vấn bởi Paul L. Montgomery viết cho tờ New York Times vào ngày 26 tháng ba tại khách sạn Parker-Meridien nơi anh đang ở, K nói với Montgomery: ‘Bạn thấy, tôi đã không bao giờ chấp nhận uy quyền, và tôi đã không bao giờ áp đặt uy quyền vào những người khác. Tôi sẽ kể cho bạn một chuyện vui. Trong suốt thời gian của Mussolini, một trong những viên chức chính của ông yêu cầu tôi nói chuyện ở Stresa, bên cạnh Lago Maggiore (đây là vào mùa hè năm 1933). Khi tôi đến sảnh, trước mặt của tôi có những hồng y, những giám mục, những tướng lãnh. Có thể họ nghĩ tôi là một vị khách của Mussolini. Tôi nói về uy quyền, nó nguy hại đến mức nào, nó phá hoại đến mức nào. Ngày hôm sau, khi tôi nói chuyện lại, chỉ có một bà cụ già là khán giả.’ Khi được hỏi bởi Montgomery liệu anh nghĩ suốt cuộc đời làm việc của anh đã tạo ra bất kỳ khác biệt nào cho cách những con người đã sống hay không, anh trả lời, ‘Thưa bạn, một chút ít, nhưng không nhiều lắm.’

 Khi K phải cô đọng điều gì anh nói thành hai nói chuyện, lúc này anh tạo ra hiệu quả nhiều hơn khi anh thực hiện một loạt nói chuyện như tại những họp mặt Ojai, Saanen và Brockwood và tại những nói chuyện anh thực hiện đều đặnẤn độ. Trong nói chuyện lần đầu tiên ở New York này, anh nói về sự phân tích tâm lý, đến mức độ đã trở thành một bộ phận của lối sống người Mỹ: ‘Nếu có bất kỳ phiền muộn nào chúng ta lết đến người phân tích – anh ấy là một giáo sĩ hiện đạichúng ta nghĩ anh ấy sẽ giải quyết tất cả những vấn đề nhỏ nhen ngu xuẩn của chúng ta. Sự phân tích hàm ý rằng có một người phân tích và vật được phân tích. Ai là người phân tích? Anh ấy tách rời vật được phân tích à? Hay anh ấy là vật được phân tích?’ K đang nói về người phân tích và vật được phân tích mà chính là điều gì suốt nhiều năm anh đã nói về người quan sát và vật được quan sát, người suy nghĩsuy nghĩ của anh ấy. Không có khác biệt gì giữa chúng. Anh khẳng định, điều này là đúng thực, về tất cả sự phân chia phía bên trong. Anh nói, ‘Khi bạn bị tức giận, tức giận là bạn. Bạn không khác biệt tức giận. Khi bạn tham lam, ganh tị, bạn là điều đó.’

 Anh nài nỉ khán giả ở New York đừng vỗ tay trước hay sau một nói chuyện: ‘Nếu bạn vỗ tay bạn đang vỗ tay cho sự hiểu rõ của bạn . . . Trong bất kỳ cách nào người nói không hứng thú là một người lãnh đạo, là một đạo sư – tất cả mọi điều vô lý xuẩn ngốc đó. Cùng nhau chúng ta đang hiểu rõ điều gì đó trong sống, sống mà đã trở thành cực kỳ phức tạp.’

 Tại cuối nói chuyện lần thứ hai anh hỏi liệu anh được phép đứng dậy và rời nơi đó và chắc chắn đã bị thất vọng khi những câu hỏi được đưa ra cho anh. Anh nài nỉ chỉ thêm hai câu thôi. Một câu hỏi cuối là: ‘Thưa ông, ông làm ơn giải thích cho tôi về Thượng đế? Thượng đếtồn tại hay không?’ Đối với câu hỏi này K trả lời:

 

Chúng ta đã sáng chế Thượng đế. Tư tưởng đã sáng chế Thượng đế, đó là, từ đau khổ, tuyệt vọng, cô độc, lo âu chúng ta đã sáng chế cái sự việc đó được gọi là Thượng đế. Thượng đế đã không tạo ra chúng ta trong hình ảnh của ngài – tôi ước ngài không. Theo cá nhân tôi không có niềm tin trong bất kỳ điều gì. Người nói chỉ đối diện cái gì là, nhận ra bản chất của mỗi sự kiện, mỗi tư tưởng, tất cả những phản ứng – anh ấy hoàn toàn ý thức được tất cả việc đó. Nếu bạn được tự do khỏi sợ hãi, khỏi phiền muộn, không có nhu cầu cho một Thượng đế.65

 

Đã có tiếng vỗ tay khi anh đứng dậy, bất kể sự nài nỉ đừng vỗ tay của anh.

 

***

 

Tại Ojai, vào tháng tư, bốn bàn luận dài nhiều tiếng đồng hồ đã xảy ra về đề tài ‘Bản chất của Cái trí’ giữa K, David Bohm, Dr John Hidley, một chuyên gia tâm thần học đang hành nghề riêng ở Ojai, và Rupert Sheldrake, người tại thời gian đó là một người tư vấn cho International Crops Institute ở Hyderabad. Những bàn luận này, được quay video màu, đã được tài trợ bởi Robert E. Simon Foundation, một tổ chức tư nhân trao tặng sự tài trợ quan trọng cho những nghiên cứu về sức khỏe tinh thần. Có những thỉnh cầu lập tức về những cuộn video này từ vô số những trường đại học và những trung tâm giáo dục khắp quốc gia, mà hoặc có thể mua hoặc mượn chúng để chiếu cho mọi người xem. Chúng cũng được chiếu trên nhiều đài truyền hình cable, kể cả New York.66

 Dường như K đặc biệt khỏe mạnh và đầy nghị lực vào sinh nhật lần thứ tám mươi bảy của anh vào tháng năm. Anh bảo với Mary, ‘Lúc này mỗi đêm thiền định đánh thức anh.’ Trong suốt thiền định của anh ‘cái khác lạ’ luôn luôn hiện diện cùng anh. Anh đã diễn tả trong quyển Notebook của anh (trang 121) nó như thế nào khi được đánh thức trong đêm bởi thiền định này:

 

Thiền định tại giờ đó là sự tự do và nó giống như đang thâm nhập vào thế giới không biết được của vẻ đẹp và tĩnh lặng, nó là một thế giới không hình ảnh, biểu tượng hay từ ngữ, không có những làn sóng của ký ức. Tình yêu đang chết mỗi giây phút và mỗi chết là sự trở lại của tình yêu. Nó không là sự quyến luyến, nó không có những gốc rễ; nó nở hoa mà không ngừng lại và nó là một ngọn lửa mà đốt cháy mọi ranh giới, những hàng rào được thiết lập vững chắc của ý thức. Thiền định là sự hân hoan và cùng nó có phước lành.

 

Tháng sáu K sẽ thực hiện hai nói chuyện tại Barbican Hall ở London – lần đầu tiên anh nói chuyện ở nước Anh trong một sảnh lớn hơn Friends’ Meeting House – nhưng mặc dù sảnh đông nghẹt người, những nói chuyện không là một thành công. Trong nói chuyện lần thứ nhất, loa phát thanh không hoạt động; trong nói chuyện lần thứ hai K, không thích bầu không khí của nơi đó, không cách nào có thể cố gắng hết sức được. Không có lối vào riêng cho những nghệ sĩ, mà phải đi qua hành lang tiền sảnh để đến sảnh. Không thể làm được việc này, K phải được đưa lên trong thang phục vụ.

Dr Parchure, từ Rajghat, lúc này thường theo cùng K bất kỳ nơi nào anh đi, và năm nay Dr Dagmar Lietchi, đã về hưu từ Bircher-Benner Clinic ở Zurich, biết K từ năm 1960 do sự giới thiệu của người chú, hiện diện tại họp mặt Saanen và đi thẳng đến Tannegg để thảo luận sức khỏe của K với Dr Parchure; đường trong máu của anh vẫn còn quá cao. Họ đề nghị K nên hủy bỏ hội thảo của những người khoa học sẽ được tổ chức tại Brockwood sau họp mặt ở đó và có một kỳ nghỉ thực sự tại nơi nào đó mà anh không được biết. Anh đồng ý việc này. Anh đang bắt đầu tự nhận ra rằng anh nên sắp xếp thưa ra những hoạt động của anh nhiều thêm nữa. Mặc dù cảm thấy mệt sau họp mặt Saanen, anh đọc một loạt những Thư gửi Trường học, một lá một ngày giữa ngày 1 và 12 tháng tám. Sau đó, vào tháng chín, anh đi cùng Mary đến Pháp, đến một khách sạn gần Blois nơi anh ở trên mười lăm ngày. Dorothy Simmons ở cùng họ được một tuần lễ. Nó là kỳ nghỉ thực sự cuối cùng thuộc sống của K – không nói chuyện, không bàn luận, không phỏng vấn và, một lần duy nhất, khi anh đang nghỉ ngơi bộ đầu của anh đã không quấy rầy anh.

Trước khi anh đi Ấn độ vào tháng mười, tôi nài nỉ anh tiếp tục viết nhật ký của anh. Tôi cảm thấy rằng anh đang nói quá nhiều và không viết gì cả. Nói dễ dàng hơn viết, và trong những nói chuyện của anh người ta nhớ những diễn tả hay của anh về thiên nhiên. Anh trả lời rằng bây giờ viết khó khăn lắm vì hai tay của anh đã bị run nhiều. Tôi gợi ý, vậy thì tại sao khi ở một mình anh không đọc vào một cái máy thâu băng? Anh thích ý tưởng này nhưng nói rằng anh sẽ không có thời gian trong khi anh đang ở Ấn độ.

Ấn độ không chỉ có những nói chuyện thường lệ, năm nay còn thêm bốn nói chuyện rất thành công ở Calcutta, nơi trước kia anh chưa bao giờ nói chuyện, nhưng còn có những bàn luận vô tận cùng nhóm người mà anh đã quây quần quanh anh trong nhiều năm, kể cả Pupul Jayakar, Sunanda và Pama Patwardhan và Achyut người em của Pama, và một học giả uyên thâm Jagannath Upadhyaya.67 Ở Châu âu và Mỹ, K thường ăn sáng trong giường và không ra khỏi giường đến mãi trưa nếu anh không có một cuộc hẹn, trái lạiẤn độ anh đi xuống ăn sáng cùng bạn bè và nói chuyện bắt đầu lúc đó. Những bàn luận, cùng nhiều người tham dự và đưa ra những câu hỏi, là cách ưng ý nhất ở Ấn độ để khoét sâu vào lời giảng thuộc tôn giáo hay triết học. Không nghi ngờ gì cả đây là cách tốt nhất cho sự hiểu rõ thuộc trí năng nhưng dường như nó còn là khúc dạo đầu của những bước nhảy vọt dành cho những người đã sẵn sàng trực nhận điều gì K đang nói. Chính K cũng đươc kích thích bởi những bàn luận này ở Ấn độ. Anh thích thâm nhập chầm chậm, hợp lý, từng bước một vào triết lý của anh. Nó cũng là cách của người Ấn độ để tìm hiểu mọi vấn đề đã được đề cập. K hoàn toàn đồng ý cách này, bởi vì sự trung thành, chấp nhận những từ ngữ của một người khác không một chút ngờ vực, đối với anh sẽ là một rào cản không thể vượt qua được cho sự khám phá chân lý qua hiểu rõ về chính mình.

Tại trường Rishi Valley, Radhika người con gái của Pupul Jayakar, mà đã có bằng tiến sĩ trong những nghiên cứu về tiếng Phạn và Phật giáo từ một trường đại học ở Mỹ và đã kết hôn với một giáo sư người Canada, Hans Herzberger, lúc này là người Điều khiển của Những Nghiên cứu, đang làm việc gần gũi với Narayan mà vẫn còn là Hiệu trưởng. K rất hài lòng trong cách trường đang tiến triển. Có 340 học sinh miễn tiền học phí, được rút ra từ những vùng khác nhau của Ấn độ, một phần ba trong các em là nữ sinh và mười phần trăm nhận học bổng. Rishi Valley có danh tiếng là một trong những trường xuất sắc nhất ở Ấn độ.

Khi K trở lại Ojai vào tháng hai năm 1983, anh bắt đầu đọc liên tục nhật ký của anh. Anh đọc bài đầu tiên vào một máy thâu băng mới khi ở một mình trong phòng sau bữa ăn sáng trong giường, và tiếp tục những bài đọc này, mặc dù không hàng ngày, mãi đến đầu tháng tư. Hầu hết những bài đọc bắt đầu bằng một miêu tả về thiên nhiên, chỉ rõ rằng mỗi ngày thực sự là một ngày mới mẻ cho anh, một ngày như chưa bao giờ đã từng là trước kia. Đối với nhiều người, những miêu tả này kích thích toàn thân tâm, làm cho nó tiếp nhận theo trực giác lời giảng tiếp theo. Vào tháng ba năm sau, lại nữa tại Ojai, anh đọc ba bài nữa khi ở một mình trong phòng của anh. Xuất bản hai năm trước khi anh chết, đây là quyển cuối cùng chúng ta sẽ có về những phản ảnh riêng của anh và, như nó đã xảy ra, bài cuối trong tất cả nói về chết. Anh miêu tả bằng cách nào, trong khi đang dạo bộ vào một sáng nắng đẹp mùa xuân, anh đã trông thấy một chiếc lá chết, ‘vàng và đỏ rực’, đang nằm trên con đường. Anh nói, ‘Chiếc lá đó đẹp làm sao, thật đơn giản trong chết của nó, thật sinh động, đầy vẻ đẹp và sức sống của toàn cái cây và mùa hè. Lạ lùng rằng nó đã không héo tàn.’ Anh tiếp tục:

 

Tại sao con người chết đau khổ như thế, bất hạnh như thế, cùng một bệnh tật, tuổi già, lão suy, thân thể co rúm, xấu xí? Taii sao họ không thể chết tự nhiênđẹp đẽ như chiếc lá này? Điều gì sai trái với chúng ta vậy? Bất kể những bác sĩ, những thuốc men và những bệnh viện, những giải phẫu và tất cả những khốn khổ của sống, và những vui thú nữa, chúng ta dường như không thể chết đầy trang nghiêm, đơn giản, kèm theo một nụ cười . . . Khi bạn dạy các em môn toán, tập viết, tập đọc và mọi công việc thâu lượm hiểu biết, các em cũng nên được dạy sự trang nghiêm vô cùng của chết, không phải như một sự việc bất hạnh sầu thảm mà cuối cùng người ta phải đối diện, nhưng như cái gì đó của sống hàng ngày – sống hàng ngày của nhìn ngắm bầu trời xanh và con cào cào trên một chiếc lá. Nó là thành phần của học hỏi, giống như bạn mọc răng và có những lo lắng của những căn bệnh trẻ em. Các em có tánh hiếu kỳ lạ lùng. Nếu bạn thấy bản chất của chết, bạn không giải thích rằng mọi thứ đều chết, cát bụi trở về cát bụi và vân vân, nhưng không có bất kỳ sợ hãi nào bạn giải thích nó cho các em thật dịu dàng và làm cho các em cảm thấy rằng sống và chết là một . . .

 Không có sự sống lại, đó là mê tín, một niềm tin giáo điều. Mọi thứ trên đất, trên quả đất đẹp đẽ này, sống, chết, tồn tạihéo tàn. Muốn nắm bắt toàn chuyển động của sống này cần có thông minh, không phải sự thông minh của tư tưởng, hay những quyển sách, hay hiểu biết, nhưng sự thông minh của tình yêu và từ bi cùng nhạy cảm của nó . . . Khi người ta nhìn chiếc lá chết đó cùng tất cả vẻ đẹp và màu sắc của nó, có lẽ người ta sẽ hiểu rõ rất thăm thẳm, nhận biết được, chết riêng của người ta phải là gì, không phải tại ngay khúc cuối nhưng tại khởi đầu. Chết không là một việc kinh hãi nào đó, cái gì đó phải được lẩn tránh, cái gì đó phải được trì hoãn, nhưng trái lại cái gì đó theo cùng ngày ngày. Và từ đó một ý thức lạ thường của vô hạn hiện diện.68
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 271)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 523)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 510)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 482)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 549)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 343)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 463)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 807)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1154)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1468)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1183)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1113)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2319)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1519)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1793)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2193)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1906)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2616)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4764)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2645)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6329)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3264)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3059)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2912)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3690)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3189)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8101)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2850)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8517)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4414)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8155)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6737)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11225)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22839)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5265)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11771)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11393)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12596)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34634)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32779)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22190)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12531)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11872)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10397)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10867)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11817)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11723)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10951)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10729)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11409)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7202)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6544)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7235)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5736)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6438)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6024)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9391)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5916)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5898)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5643)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant