Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VIII. Dịch truyền cảm thông

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15401)
VIII. Dịch truyền cảm thông


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

VIII. DỊCH TRUYỀN CẢM THÔNG (các bản dịch, bản được lưu truyền, những sự cảm ứng do tụng trì kinh này)

A. Các bản dịch:

Từ Phạn ngữ, dịch sang Hán văn có hai bản dịch:

 1. Bản thứ nhất mang tên Phật Thuyết A Di Ðà Kinh, do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch vào thời Dao Tần (394-415).

 2. Bản thứ hai mang tên Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ Kinh do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch vào đời Ðường.

 Hai bản dịch này đại đồng tiểu dị, bản dịch của Ngài Huyền Trang chi tiết hơn, nhưng kém phần bóng bẩy hơn so với bản dịch của Ngài La Thập. Hiện tại, bản được lưu truyền rộng rãi hơn cả là bản dịch của Ngài La Thập (thường gọi là bản Tần dịch).

 Ngoài hai bản dịch này, hiện còn một bản hội tập hai bản kinh trên do cư sĩ Hạ Liên Cư soạn. Ngoài Tịnh Ðộ Cư Sĩ Lâm Trung Hoa, bản hội tập này không được sử dụng phổ biến cho lắm. Theo Chúng Kinh Mục Lục, vào đời Lưu Tống, kinh này cũng được Ngài Cầu Na Bạt Ðà La dịch với tựa đề Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh nhưng đã thất truyền.

 Khi chú giải các kinh này, từ xưa đến nay, các nhà sớ giải kinh đều dùng bản của Ngài La Thập. Ngay cả đại đệ tử của pháp sư Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ khi sớ giải kinh cũng dùng bản của Ngài La Thập, có lẽ vì bản này phổ biến hơn cả.

 B. Các bản chú giải:

Từ xưa đến nay, kinh này được chú sớ rất nhiều, nhưng bị thất truyền rất nhiều. Hiện tại, chỉ còn giữ lại được một số bản chú giải như sau:

 1. A Di Ðà Kinh Nghĩa Ký, 1 quyển, do Ngài Trí Khải soạn thuật vào đời Tùy.

 2. A Di Ðà Kinh Nghĩa Thuật, 1 quyển, do Ngài Huệ Tịnh soạn vào đời Ðường.

 3. A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ, 3 quyển, do Ngài Khuy Cơ soạn vào đời Ðường.

 4. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Khuy Cơ đời Ðường soạn.

 5. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu người xứ Tân La soạn.

 6. A Di Ðà Kinh Sớ, do Ngài Trí Viên soạn vào đời Tống.

 7. A Di Ðà Kinh Nghĩa Sớ do Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu đời Tống soạn.

 8. A Di Ðà Kinh Cú Giải do Ngài Tánh Trừng soạn vào đời Nguyên.

9. A Di Ðà Kinh Lược Giải của Ngài Ðại Hựu thời Nguyên.

 10. A Di Ðà Kinh Sớ Sao do Ngài Vân Thê Liên Trì soạn vào thời Minh.

 11. A Di Ðà Kinh Lược Giải Viên Trung Sao, 2 quyển, do Ngài U Khê Truyền Ðăng soạn.

12. A Di Ðà Kinh Yếu Giải do Ngài Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc soạn vào cuối đời Minh.

 13. A Di Ðà Kinh Yếu Giải Giảng Nghĩa của Viên Anh Pháp Sư đời Thanh.

14. A Di Ðà Kinh Thiệt Tướng của Ngài Tịnh Ðĩnh soạn.

 15. A Di Ðà Kinh Trực Giải Chánh Hạnh của Liễu Căn Toản soạn.

 16. A Di Ðà Kinh Lược Chú của Ngài Tục Pháp soạn.

 17. A Di Ðà Kinh Trích Yếu Dị Giải do Ngài Chân Tung soạn.

 18. A Di Ðà Kinh Ước Luận của cư sĩ Bành Tế Thanh soạn vào đời Thanh.

 19. A Di Ðà Kinh Thích và A Di Ðà Kinh Chú của Trịnh Trừng Ðức và Ðặng Trừng Nguyên hợp soạn.

 20. A Di Ðà Kinh Tiên Chú của cư sĩ Ðinh Phước Bảo (ông này cũng là tác giả của bộ Phật Học Ðại Từ Ðiển).

Từ bản A Di Ðà Kinh Sớ Sao, Ngài Trí Nguyện tổng kết những lời giảng của chư cổ đức đời Minh soạn ra ba tác phẩm: A Di Ðà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Vấn Biện, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa.

Ngài Ðạt Mặc (không rõ thời đại) soạn lời Sao cho cuốn Yếu Giải của Tổ Trí Húc, đặt tên là A Di Ðà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao,

 Trong các bản chú giải kinh trên đây, bản Yếu Giải của Ngài Ngẫu Ích được Tổ Ấn Quang tán dương như sau: “Lý sự đều đạt đến chỗ tuyệt diệu, kể từ khi Phật thuyết kinh này đến nay, Yếu Giải là bản chú giải bậc nhất, khéo léo nhất, xác thực nhất. Ví dù cổ Phật xuất thế chú giải lại kinh này cũng chẳng thể hay hơn được nữa”. Vì thế, trong các bản chú giải kinh A Di Ðà, tác phẩm A Di Ðà Kinh Yếu Giải được lưu truyền mạnh mẽ nhất.

 Cho đến hiện tại, chư tôn cổ đức vẫn tiếp tục diễn giảng kinh A Di Ðà và trước tác rất nhiều tác phẩm mới để phu dương mật nghĩa của kinh này nhưng kiến giải đa phần vẫn dựa theo hai tác phẩm Yếu Giải và Sớ Sao là chính.

 C. Sự cảm ứng của việc trì kinh

Từ xưa đến nay, người trì tụng kinh này được cảm ứng rất nhiều, xin lược thuật một vài chuyện:

Theo Trí Ðộ Luận, có một vị tỳ kheo trì tụng kinh A Di Ðà, lúc sắp mạng chung, bảo đệ tử rằng: “A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng đều đến đón ta”. Mất rồi, đệ tử làm lễ trà tỳ, thấy cuống lưỡi của vị tỳ kheo ấy chẳng cháy, hình dáng, màu sắc vẫn tươi nguyên như khi còn sống.

Ông Ðường Thế Lương đời Tống tụng kinh Di Ðà đến mười vạn biến. Một ngày nọ bảo người nhà: “Phật đến đón ta”. Nói xong, làm lễ mà tịch. Ðêm ấy có kẻ đi buôn, ngụ bên núi Ðạo Vị, mộng thấy ánh sáng lạ lùng ở Tây Phương, phan, hoa vần vũ, âm nhạc réo rắt, trên không rền vang tiếng nói: “Ông Ðường Thế Lương đã sanh về Tịnh Ðộ”.

Ðời Tống, kẻ thảo dân Bằng Mân, thuở trẻ thích săn bắn. Một ngày nọ, đi săn gặp một con rắn to liền cầm giáo xông đến đâm. Khi ấy, rắn đang núp một gộp đá lớn, toan mổ một con bò vàng. Bằng Mân xô đá đè chết rắn. Khi được tái sanh, rắn nhiều phen tính trả thù, nhưng họ Bằng đã tu sám, niệm Phật đã lâu nên rắn chẳng làm gì được. Ðến một ngày nọ, ông thỉnh các bạn đồng tu Tịnh nghiệp tụng kinh Di Dà, ngồi chắp tay qua đời.

Ðời Tống, pháp sư Trí Tiên, hiệu Chân Giáo, trụ trì chùa Bạch Liên, suốt mười ba năm hướng về Tây niệm Phật, trong 12 thời chưa từng thiếu sót công phu. Một chiều nọ, Sư mỉm cười, sai quán đường hành nhân tụng kinh A Di Ðà. Tụng chưa xong, Sư đã an nhiên tọa hóa.

Ngài Thích Xử Khiêm đời Tống chuyên tu Tịnh Ðộ. Một tối nọ, tụng kinh A Di Ðà xong, Ngài khen ngợi Tịnh Ðộ rồi bảo với đại chúng rằng: “Tôi đã đạt vô sanh mà sanh Tịnh Ðộ”. Liền như nhập thiền định, lặng lẽ mà hóa.

Ðời Tống, bà lão họ Chung ở quận Gia Hòa, mỗi ngày tụng kinh Di Ðà mười biến, niệm Phật chẳng bỏ sót ngày nào. Một ngày nọ bà bảo con: “Ta thấy hoa sen trắng vô số, thánh chúng đến đón ta”. Rồi ngồi ngay ngắn, lặng lẽ qua đời.

Hoài Ngọc thiền sư người Ðài Châu, chuyên mặc áo vải, ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, tinh tấn niệm Phật, tụng kinh Di Ðà đến ba mươi vạn biến. Một ngày kia thấy Tây Phương thánh chúng nhiều như cát sông Hằng. Một vị tay cầm đài bạc, theo cửa sổ mà vào. Sư hỏi: “Tôi một đời tinh tấn, thề lấy được đài vàng, sao lại như thế này?” Ðài bạc liền ẩn mất. Sư càng cảm khích, tinh tấn gấp bội. Hăm mốt ngày sau, thấy Phật hiện chật cả không trung, bèn bảo đệ tử: “Kim đài đã đến đón, ta sanh về Tịnh Ðộ đây!” Rồi đọc kệ, mỉm cười mà tịch.

Năm Ðại Lịch thứ chín đời Nguyên, Tử Hoa thiền sư trụ tại chùa Quán Âm ở Nhuận Châu, tụng kinh Di Ðà suốt sáu tháng, chợt mắc bệnh. Ðêm ngửi thấy mùi hương, nghe tiếng âm nhạc, trên không có tiếng bảo: “Sự vui thô thiển đã qua, sự vui tinh tế sẽ tiếp nối. Ngài sẽ vãng sanh”. Chẳng lâu sau, sư niệm Phật viên tịch, mùi hương ngào ngạt suốt mấy ngày chẳng tan.

Ngay cả cầm thú cũng được lợi lạc do việc trì kinh này. Quán công ở chùa Chánh Ðẳng tại Hoàng Nham, có nuôi một con nhồng (tên một loài chim), thường dạy nó niệm Phật chẳng ngớt. Về sau, con nhồng chết đứng trong lồng. Quán công đem chôn, ít lâu sau, trên mộ chim mọc lên một đóa hoa sen tím. Bới đất để tìm gốc sen, thấy hoa sen ấy mọc ra từ lưỡi con nhồng.

 Sự cảm ứng của kinh Di Ðà rất nhiều, chẳng thể thuật trọn. Chúng ta là hạng phàm phu khổ não chúng sanh, muốn thoát ly biển khổ, mong vượt khỏi tam giới, thật phải nên buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì đương nhiên sẽ hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14739)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46260)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21082)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23453)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18946)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15435)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13126)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51302)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6625)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13136)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29385)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34432)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23644)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30420)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30092)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32732)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10579)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58716)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11393)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31029)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25338)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22813)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17698)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42219)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45768)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17790)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29189)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34741)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26361)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13216)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18786)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13862)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30025)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22851)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12554)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36979)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant