Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 9576)
04. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

III. Những bản văn dịch (từ tiếng Nhật sang tiếng Đức)

4. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

Phần kế tiếp chỉ có nơi sách tiếng Nhựt và không có nơi sách tiếng Đức của Christian Steineck

4.1 Phần kế tiếp

Thời Hậu Điểu Vũ Viện trị vì, Pháp Nhiên Thượng Nhơn đã làm cho Tông Tha Lực Bổn Nguyện Niệm Phật lên cao trào. Khi ấy các Tăng lữ tại chùa Hưng Phước trình tấu khiêu khích lên bên trên. Trong số đệ tử ấy có những người như Vượn Tịch Tử Tế (Roozeke Shisai) cũng bị ghép tội xử phạt, dầu cho chẳng phải là sự thật nghe qua.

Một là Pháp Nhiên Thượng Nhơn (Hoonen Shoonin) cùng với 7 người đệ tử bị hình phạt lưu đày. Còn 4 người đệ tử khác bị tội tử hình. Pháp Nhiên Thượng Nhơn bị tội lưu đày ra Thổ Tá Quốc Phan Đa (Tosanokuni Hata). Tội ấy tên là: Đằng Tĩnh Nguyên Nhan Nam vân vân (Bujii Motohiko Otoko Unmen). Lúc ấy Ngài 76 tuổi. Ngài Thân Loan thì bị đày ra Việt Hậu Quốc (Echigo no Kuni) với tội danh là Đằng Tĩnh Thiện Tín vân vân, lúc ấy Ngài 35 tuổi.

Tịnh Văn Phòng (Zoomonboo) đày đi Bị Hậu Quốc. Trừng Tây Thiền Quang Phòng (Choosai Zenkoo Boo) đày đi Bá Kỵ Quốc. Hảo Giác Phòng (Kokakuboo) đày đi Ý Đậu Quốc. Hành Không Pháp Bổn Phòng (Gyookuu Hoobonboo) đày đi Tả Độ Quốc.

Hạnh Tây Thành Giác Phòng (Koosai Zookaku boo) và Thiện Huệ Phòng (Zeneboo) cùng bị quyết định đày đi xa, Thiện Đề Đại Tăng Chánh của Vô Động Tự được miễn tội lưu đày. Tất cả những người bị đày đi xa như bên trên là 8 người.

Tử hình gồm những vị như sau:

Người thứ nhất là Tây Ý Thiện Trác Phòng (Sai I Zenshakhuboo)

Người thứ nhì là Tánh Nguyện Phòng (Shooganboo)

Người thứ ba là Trụ Liên Phòng (Yuurenboo)

Người thứ tư là An Lạc Phòng (Aurakuboo)

Hai vị Pháp Ấn Tôn Trưởng bị sa thải.

Thân Loan phải cải đổi Tăng bào và cho dùng tên thế tục. Nghĩa là Tăng chẳng ra Tăng mà Tục chẳng phải Tục. Ở giữa đó còn lót chữ ngốc làm họ nữa. Qua tấu văn được trình nghe, sau được nộp bản văn nầy nơi lưu giữ ở ngoại sảnh. Sau khi bị đày, buộc phải dùng tên là Ngu Ngốc Thân Loan (Gutoku Shinran)

Thánh Giáo phía bên trên được viết khi bị lưu đày, đã trở thành việc lớn của Thánh Giáo. Đối với kẻ không có duyên lành thì phải trái cũng không. Điều nầy chẳng thể được chấp nhận.

Thích Liên Như (Hoa Giáp)

(Dịch xong những phần trên vào ngày 22 tháng 4 năm 2011 tại chùa Phật Ân, Mineapolis, Hoa Kỳ)

Thích Như Điển

4.2 Lời cuối

bất cứ tín tâm của ai cũng giống nhau

Như bên trên đã ghi từ chương thứ 11 đến chương thứ 18 là những chương có thể nói là sự phát sanh bằng cách hiểu khác về tín tâm ấy.

Thân Loan Thánh Nhơn khi còn sanh tiền, Ngài đã nói những việc như sau, lúc Thầy của Ngài là ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân còn tại thế. Tuy có nhiều người bạn niệm Phật, nhưng những người niệm Phật ấy chẳng giống tín tâm của Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân. Do vậy mà Ngài Thân Loan Thánh Nhơn và giữa những người đồng tu thưở ấy đã xảy ra việc pháp luận như vậy.

Pháp luận ấy là: “Tôi, Thân Loan (Thiện Tín Phòng) cũng có tín tâm và với tín tâm của Pháp Nhiên Thượng Nhơn là một chứ chẳng phải khác, tuyệt nhiên không có khác gì cả”. Điều nầy Ngài Thân Loan đã nói và những vị đồng tu như Thế Quan Phòng và Niệm Phật Phòng và những vị nầy đã bảo rằng: Ngài suy nghĩ như vậy là sai rồi. Với tín tâm của Ngài Pháp Nhiên là Thầy của chúng tatín tâm niệm Phật chưa thành thục của Ngài hoàn toàn chẳng giống nhau”.

Thân Loan bảo rằng: “Nếu Thầy tôi là Pháp Nhiên Thượng Nhơn và sự học vấn của tâm cũng như trí tuệ giống nhau, thì với việc ấy, có thể nghĩ đến được chăng? Thầy và tôi, không thể so sánh hết tất cả mọi phương diện, nhưng chỉ một việc đề cập đến là vấn đề tín tâmĐức Di Đà Như Lai đã sắc phong cho. Niềm tin giữa Thầy và tôi không có sự khác biệt nhau, chỉ là một mà thôi”.

Tuy vậy nhưng những người bạn đồng tu hoàn toàn chẳng hiểu cho. Nên bảo rằng: “Đó chẳng phải là việc ngu ngơ hay sao? Vì sao mà có thể nói như vậy được? “Đó là câu hỏi thật nghiêm khắc được đặt ra cho ngài Thân Loan.

Giữ nguyên như vậy không có gì thay đổi. Đối trước Pháp Nhiên thì bên nào đúng hơn, mà Thượng Nhơn cũng chẳng quyết định khác hơn được. Việc nầy đã được Ngài giải thích về Pháp Nhiên Thượng Nhơn như sau:

Cái ta” nầy cũng như niềm tin của Nguyên Khôngtín tâm được sắc phong từ Đức Di Đà Như Lai. Tín tâm của Thiện Tín Phòng cũng được đức Di Đà Như Lai sắc phong. Đồng thời tín tâm kia hoàn toàn giống nhau; chẳng có gì khác cả. Nếu có người mang tín tâm khác với tôi, thì việc vãng sanh Tịnh Độ của tôi chắc rằng không được sanh sao?

Nếu suy nghĩ về vấn đề nầy thì ngay bây giờ cũng có người một lòng niệm Phật thì tôi, tín tâm của Thân Loan nầy cũng chẳng khác với tín tâm của người kia, mà là sự đồng nhất. Để hướng dẫn, đã được nói như vậy.

Vậy thì như việc đã tường thuật bên trên, ngay cả những người già cả cũng đã lặp đi lặp lại, có thể chẳng có giá trị gì, nhưng đã được viết lại như vậy. Cuộc sống của tôi cũng sẽ sớm khô cằn như cỏ, trên đó có đọng những giọt sương, mạng người chẳng có gì đáng nói. Đời sốnggiới hạn. Bây giờ lắng nghe những sự nghi ngờ của những người đang đi trên đường, đều cùng tín tâm giống nhau. Đây là điều Thân Loan Thánh Nhơn trực tiếp dạy cho và từ đó có thể nói về tín tâm của Tịnh Độ Chân Tông.

Tuy nhiên nếu sau khi tôi chết cũng có người dị đoan và không phải là không có nghi vấn, do vậy đã ghi lại những điều nầy. Nếu tôi có nói thiếu sót đối với những người chủ trương dị đoan hay dị thuyết như tôi đã tường thuật phía trước, thì bây giờ đối với Thân Loan Thánh Nhơn hãy tìm đọc những lời nóikinh điển cũng như những thơ từ được dịch viết và hãy đừng bị mê hoặc về điều ấy.

Phật Pháp thật là khó, nếu không học cho đứng đắn thì chẳng phải hiểu ngược lại sao? Như vậy thì đối với những lời dạy của Tịnh Độ, trong ấy được gọi là kinh điển của Thánh Giáo ấy cũng trở thành cái chân, cái giả và phương tiện vậy. Như thế thì phương tiện hãy bỏ đi, hãy lấy điều chân thật. Cái giả sẽ lựa ra và cái chân thật hãy dùng đến. Đây chính là việc thực hành bổn ý của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn vậy. Dụng tâm một cách đầy đủ và hãy học những kinh điển cũng như những sách vở giải nghĩa và nên làm cho những lời dạy về phương tiện và những lời dạy chân thật đừng lẫn lộn với nhau.

Bởi vì đây chính là điều đáng lo ngại, nên viết ra một ít lời nói quan trọng vào nơi quyển sách nầy sẽ thấm nhuần được điều ấy.

Từ lời nói thường nhật của Thân Loan Thánh Nhân đã được nói ra rằng: “Đức Di Đà Như Lai từ xa xưa hằng năm kiếp về trước là thời gian đã thành tựu được bổn nguyện của Di Đà Như Lai về việc cứu độ con người. Đối với lời thệ nguyện ấy cuối cùng với tôi, một mình Thân Loan nầy lưu tâm. Với tôi đối với tội lỗi của mọi người, tuy tội đầy mình; nhưng với tội nặng nầy cũng như nhiều phiền não như tôi mà nghĩ rằng cứu được thì đó chính là sự tôn kính bổn nguyện của Đức A Di Đà Như Lai, chứ chẳng phải là cảm được cái sáng sủa ấy”.

Nếu suy nghĩ về vấn đề nầy thì đối với bậc đại hành giả về Tịnh Độ của Trung Quốc, Ngài Thiện Đạo Đại Sư đã nói rằng “với tôi, con người của thế gian, hiện tại với nhiều tội ác chồng chất, vấn đề sanh tử bị mê hoặc và cũng đã mê muội từ xa xưa nơi thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, loài ngườichư thiên. Chỉ đắm trong sáu đường, chẳng tỏ ngộ và từ nơi sự mê mờ ấy chẳng thể rời khỏi được một bước. Thân nầy nên rõ”. Với lời nói như thế quả thật chẳng sai chút nào.

Suy nghĩ từ việc nầy thì những lời dạy của Ngài Thân Loan là tự thấy cái tội của chính mình sâu dày dưới con mắt mọi người. Trong khi đó chúng ta sống với nhiều tội lỗi. Thế nhưng không bao giờ tự biết những tội lỗi sâu dày ấy. Với ân đức của đức A Di Đà Như Lai thật cao vời, nguyện cứu vớt những tội lỗi sâu dày của chính ta, cả sự cung kính tôn trọng cũng chẳng thể rõ biết hết được. Thế giới của tự ngã, thế giới của dục vọng, thế giới của khổ đau… nơi chúng ta mê hoặc đã được Ngài chỉ rõ ràng.

Đồng thời với ân đức đáng tôn kính của đức A Di Đà Như Lai, ta cũng chẳng để ý đến ân ấy. Với bản thân mình, chúng ta chỉ biết sống với sự phê phán đúng, sai; người nầy xấu, kẻ kia tốt, chỉ lo cho chuyện của người khác.

Khi nhìn hình tướng của chúng ta như vậy, ngài Thân Loan Thánh Nhơn đã nói rằng:

“Với tôi vấn đề thiện ác hầu như chẳng để ý đến, nghĩa là nếu chúng ta nhận thức sai về thiện ác, rồi chỉ phán đoán đồng lõa, thì hiểu sai điều mà tôi đã ngộ được sự chân thật nơi đức Phật. Như vậy thì ta có thể biết được việc thiện ác chăng? Thế nhưng với cái ta giới hạn, rỗng tuếch, trống không lại mang đầy cả một thân phiền não, đồng thời chúng ta lại đang sống trong thế giới vô thường và đầy dãy khổ đau như thế giới nầy. Như vậy với cái ta nầy, tại sao có thể suy nghĩ về việc thiện ác ấy? Nếu suy nghĩ thật kỹ thì con người khi nghĩ về thế giới nầy, những hành vi hoàn toànhư ngụy; chẳng có tính cách triệt để; chỉ là việc nửa vời, hầu như chẳng có cái gì là thanh tịnhchân thật cả. Duy chỉ tự rõ biết nơi đức A Di Đà Như Lai là một đạo lý chân thật. Với đạo lý ấy, chúng ta sống hướng lên bên trên, phải là như vậy”.

Sự thật thì theo như lời dạy nầy nếu khi ta và người khác mở miệng ra, nói những lời nhẹ nhàng và nói những lời hư nguỵ, trong những lời như vậy chỉ có một lời tán thán. Đó là “nếu ở cửa miệng ấy niệm Nam Mô A Di Đà Phật và ai ai cũng thế khi hỏi đáp với nhau qua hình thức tín tâm, nên mang tâm niệm Phật như thế nào để khi người ta nói, lời nói của người kia được tôn trọng, chẳng phải là để tranh cãi với nhau. Rồi chẳng phải lời nói của Ngài Thân Loan thì chúng ta lại gán ghép cho Ngài Thân Loan nói. Đối với người đối diện, không thật tình thì đó là điều đáng buồn”.

Những việc như thế ấy, chẳng phải là sự suy nghĩlời nói của tôi nhằm hơn thua, mà đó chính là những lời nói được nói ra bởi Ngài Thân Loan Thánh Nhơn. Với tôi, sức học yếu kém, chẳng hiểu rõ hết được ý nghĩa đứng đắn của kinh điển và những thơ văn giải thích; nên đối với sự dạy dỗ sâu xa cũng như cạn cợt đã phân biệt rõ ràng. Bởi vì tôi rất là tối tăm đối với Phật Pháp. Thật ra đây là chuyện đáng buồn, có nhiều chỗ biến dạng.

Tuy vậy bây giờ chỉ còn lại một phần trăm về lời dạy quan trọng của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn, tôi nhớ và viết lại chỉ một phần nào mà thôi.

Hạnh phúc là tôi đã gặp được lời dạy của A Di Đà Như Lai, vừa nhận được ân huệ qua nhân duyên niệm Phật, nhưng nếu đức A Di Đà Như Lai qua lời thệ nguyện cứu độ con người mà chẳng được không sanh về cảnh Tịnh Độ, mà chỉ là biên địa Tịnh Độ, chỉ là phương tiện hóa độ (thế giới giả), khi sanh về đó, quả là điều đáng buồn.

Hoàn toàn giống với lời dạy ấy chúng ta hãy tin vào lời dạy của đức A Di Đà Như lai. Vừa niệm Phật, rồi tin theo điều khác xin đừng lý giải theo sự hiểu biết sai quấy. Cho nên trong khi vừa cầm bút, vừa chảy nước mắt, vừa viết nên những dòng chữ nầy. Quyển sách nầy là quyển sách phải than lên sự sầu bi về tín tâm sai khác, gọi là “Thán Dị Sao”. Quyết rằng khi cho những người khác đọc qua, chẳng phải là điều vô lý.

4.3 Lời phụ:

Thời Hậu Điểu Vũ (Goto Bain – 1180-1239) Pháp Nhiên Thượng Nhân đã dùng tha lực để tạo dựng nên tiếng niệm Phật, nhưng lúc ấy tại chùa Hưng Phước, các vị Tăng nhìn việc nầy với ác ý; nên đã trình tấu lên bên trên nghĩa là: cáo buộc trong những môn đệ của Pháp Nhiên Thượng Nhân có những hành vi chẳng phải đạo. Rồi những người thọ nhận tội chẳng thật ấy lần lượt như sau:

Một là Pháp Nhiên Thượng Nhân cùng với 7 người khác bị tội lưu đày. Lại có 4 người bị tội tử hình. Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân đày ra Thổ Tá Quốc (huyện Cao Trí) thuộc Phiên Đa. Với tội danh tên là Đằng Tỉnh Nguyên Nhan. Lúc ấy Ngài 76 tuổi.

Ngày Thân Loan thì đày đi Việt Hậu (Huyện Nigata) với tên tội là Đằng Tỉnh Thiện Tín. Lúc ấy Ngài 35 tuổi. Ngoài ra còn có những vị như sau: Tịnh Văn Phòng (bị đày ở Bổ Hậu Quốc, thuộc miền Đông của Hiroshima). Trừng Tây Thiện Quan Phòng thuộc Bá Kỵ Quốc (phía tây huyện Điểu Thủ.) Ảo Giác Phòng đày đi Y Đậu Quốc (miền Đông huyện Suiyuoka); Hành Không Pháp Bổn Phòng đày đi Tá Độ Quốc (thuộc đông bắc đảo huyện Nigata). Cả hai vị Hạnh Tây Thành Giác Phòng và Thiện Huệ Phòng quyết định theo tội danh bị đày đi xa. Còn Đại Tăng Chánh Thiện Đề chùa Vô Động (Đây là Thầy xuống tóc của Ngài Thân Loan Thánh NhânHòa Thượng Từ Trấn Từ Viên) là 2 vị được miễn tội bị lưu đày.

Bên trên là tám vị bị đày đi xa và tử hình gồm những vị như sau:

Người thứ nhất là Tây Ý Thiện Trác Phòng, người thứ hai là Tánh Nguyện Phòng, người thứ ba là Trụ Liên Phòng, người thứ tư là An Lạc Phòng.

Đây là việc suy nghĩ của hai vị pháp sư tôn trưởng. Ngài Thân Loan khi bị đày ở Việt Hậu, hình thức Tăng, phải bị cải đổi, phải dùng tên đời cũng chẳng phải là Tăng mà cũng chẳng phải là tục. Đồng thời ghép thêm chữ Ngốc. Như thế mới được yên thân. Với tấu trạng ấy ngày nay vẫn còn lưu trữ ở Ngoại Ký Sanh (khởi thảo những sắc chỉ và ghi lại những bài văn đã tấu) Nơi Chấp hành Ngoại Ký ở nơi Việt Hậu, chốn lưu đày là nơi mà Ngu Ngốc Thân Loan đã viết ra quyển sách nầy.

Áo Thơ.

Một quyển bên trên, chúng ta đã sống với lời dạy của Đức A Di Đà Như Lai. Đây là một quyển sách tài liệu rất quí giá. Ở đời quá khứ nếu chẳng có nhân duyên với Phật Pháp thì không nên cho xem sách nầy.

Thích Liên Như (Hoa Giáp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14747)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46267)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21087)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23466)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18954)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15439)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46718)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15333)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42681)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13129)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33303)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51324)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6639)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13145)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29407)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34442)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23650)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30432)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30113)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32751)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10590)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58756)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14231)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11400)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31048)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25354)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22826)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33217)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17707)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42230)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32131)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11337)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27411)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17814)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29210)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22791)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17374)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11910)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34769)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26372)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29157)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13224)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28988)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18809)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46466)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13865)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30033)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22865)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12558)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37333)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 37007)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant