Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Lời Cuối Sách

10 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4911)
V. Lời Cuối Sách


TỊNH ĐỘ TÔNG NHẬT BẢN

Nguyên tác: Kakehashi Jitsuen - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức quốc

I. Lời Cuối Sách

Mặc dù chư tôn đức và những tư tưởng gia đều mang trong mình tính sáng tạo đặc biệt riêng, chẳng phải là những người mở cánh cửa tối tăm như Thân Loan Thánh Nhơn. Đương nhiên văn chương thư từ rất dễ nhận ra mục đích lý tưởng nhưng thật khó với những trang thư đặc trưng của Thánh Nhơn như “Duy Tín Sao Văn Ý” và ở phần cuối của “Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý” giải thích như sau:

“Ít có ai sống ở thôn quê có học vấn cao về Phật Giáo, cho nên lời giải thích kinh điển của họ cũng chỉ giới hạn trong ngôn ngữ bình dị và lập đi, lập lại nhiều lần làm cho các học giả đọc sanh tâm khinh miệt nhưng không biết cách nào khác hơn. Mục đích giải thích là giúp cho người đọc nhận rõ tâm Như Lai, nên viết dông dài như thế”. Đó là ý nghĩa của những từ ngữ được dùng. Thật tế, trong “Duy Tín Sao” Thánh Giác Pháp Ấn[1] viết không hề giải thích chữ khó. Nếu so sánh với “Duy Tín Sao Văn Ý” rõ ràng “Duy Tín Sao Văn Ý” càng khó giải thích hơn. Còn trong “Nhứt Niệm Đa Niệm Phân Biệt Sự” Long Quán Luật Sư[2] giải thích “Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý” giống như vậy.

Thế nhưng, khó khăn ở đây không phải là vấn đề dùng chữ; nhưng khó nhất là vấn đề biểu hiện nguyên nhân của sự việc, bởi vì cảm giáctri thức của con người chắc chắn không thể so lường hiểu biết cao siêu và lãnh vực thâm áo của Như Lai, cho nên ngôn ngữ chỉ ảnh hưởng phần nào ý nghĩangôn ngữgiới hạn của nó. Đọc những trang thư mà Thánh Nhơn viết vượt khỏi lãnh vực tư duy của con người, không thể không kêu lên “Thánh Giáo”[3] bởi vì những trang thư ấy có một năng lực đặc biệt, cho đến bây giờ vẫn còn giá trị.

Đọc tác phẩm “Giáo Hành Chứng Văn Loại” cũng có cảm giác cao siêu như thế. Thánh Nhơn không phải chỉ viết cho người đọc mà phải nói đây là tác phẩm viết cho chính mình. Viết những trang thư ấy đương nhiên để cho một hay nhiều người đọc, nhưng không những thế vừa truyền lại con đường chân thật của Ân Sư, vừa có thể ứng đáp với Pháp Nhiên Thánh Nhơn, mà cuộc đời ấy như người tri kỷ. Ngoài ra, cũng là lời tự trình dâng lên Phật Tổ, trong đó có phần đầu của “Tín Văn Loại”và phần sau “Hóa Thân Độ Văn Loại”. Khi đọc, ta biết rằng: “Đây chính là niệm ân sâu xa Phật, mà đối với nhơn luân[4] không có gì xấu hổ cả”. Đây chính là điều mà con người bình thường không thể viết được cho kẻ khác như thế.

Phần tựa của kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ có dòng chữ: “Phật Phật Tương Niệm”[5], nghĩa là có nhiều vị Phật ra đời qua ba đời quá khứ, hiện tạivị lai. Khi nói về cảnh giới giác ngộ của Phật, chỉ có tâm niệm chân thành. Trong “Giáo Hành Chứng Văn Loại” có viết về Phật Phật Tương Niệm. Đối với tôi[6] một người ngu trước vấn đề khó giải thích trong lời “Thánh Giáo” cao như núi ấy. Thế nhưng, qua 700 năm có nhiều vị Tổ Sư đọc với tâm huyết cung kính và lưu lại không biết bao nhiêu ghi chú. Như vậy, trong khả năng giới hạn của mình, tác giả cố gắng giới thiệu phần nào về Thân Loan Thánh Nhơn vậy.

Một năm trước đây, Tôi[7] tình cờ được ông Tiểu Sơn Hoằng Lợi,[8] ban biên tập nhà xuất bản Đại Pháp Luân, muốn xuất bản một loạt bài “Chuyên Đề về Phật Giáo” ủy thác công việc biên khảo về Thân Loan. Thế nhưng Bình Thành[9] năm thứ 10, được chùa Bổn Nguyện mời giảng trong mùa hạ an cư, tôi phải phụ trách việc giảng dạy chính cho đến hết mùa hạ. Xong việc, năm nay[10] tôi mới hình thành quyển sách nầy, đó là lý do vậy.

Thật khó từ chối yêu cầu của ông Koyama, tôi phát tâm soạn thảo một tác phẩm về Thân Loan Thánh Nhơn. Khi đọc lại, tôi mới nhớ rằng mình phải viết sao cho thật dễ hiểu. Dù phạm vi nào đó, có nhiều người đọc và hiểu biết lời dạy của Thân Loan Thánh Nhơn là tôi đạt mục đích biên soạn tác phẩm nầy và vui mừng rồi. Ý nghĩa và nội dung lời dạy của Thân Loan quá thâm áo, thật ra tôi chỉ hiểu suông, rất khó bình giải. Tôi nghĩ nếu khó hiểu quá chính là lỗi của mình, không đủ năng lực, kính trân trọng xin lỗi. Độc giả đọc rất nhiều tác phẩm về Thân Loan rồi, nếu tác phẩm nhỏ bé nầy được nằm trong tay quý vị, đó là điều hân hạnh vô cùng.

Cuối cùng, việc giao bản thảo bị trễ; nhưng chúng tôi nhận được nhiều thiện cảm trìu mến cảm thông. Có nhiều vị giúp ý bảo trợ cho tác phẩm nầy, trong số đó có ông Tiểu Sơn Hoằng Lợi, nơi đây tác giả xin có lời cảm tạ tận đáy lòng

Bình Thành[11] năm thứ 11,nhằm ngày 18 tháng 5 năm 1999.
Nhân ngày Thân Phụ vãng sanh lúc 94 tuổi.Trong đêm kỷ niệm lần thứ 25,
ngày mất của Kita Kyoyoshi.


Phiên dịch công đức khó nghĩ lường
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới
Vãng sanh Cực Lạc, chốn quê hương.

Dịch xong ngày 15 tháng 12 năm 2006
tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi
Dịch Giả Thích Như Điển

 

II. Tiểu Sử Kakehashi Jitsuen[12]
Kakehashi Jitsuen sinh ngày 3 tháng 10 năm Chiêu Hòa[13] năm thứ 2 tại làng Mộng Tiền, Quận Sức Ma, Huyện Binh Khố. Tháng 3 năm Chiêu Hòa thứ 41, Thầy tốt nghiệp Tông Học Viện của phái Bổn Nguyện Tự. Nguyên trụ trì[14] (chức) chùa Quảng Đài, thuộc Chơn Ngôn Tông, phái Bổn Nguyện Tự. Nguyên là Hiệu Trưởng Sở Nghiên Cứu Giáo Học thuộc Tịnh Độ Chơn Tông. Thuộc nhóm Khuyến Học của Tịnh Độ Chơn Tông, phái Bổn Nguyện Tự. Giáo Thọ trường Hành Tín. Khách Viên nghiên cứu viện của Tịnh Độ Chơn Tông Giáo Học Nghiên Cứu Sở. Những tác phẩm chính:
Nghiên Cứu về Giáo Học của Pháp Nhiên
Viết rõ về Huyền TrangHạnh Tây Đại Đức của Tịnh Độ Giáo
Tây Phương Chỉ Nam Sao Tự Thuyết
Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý Giảng Tán
Các Vấn Đề của Tịnh Độ Giáo Học, Quyển 1và 2
Chơn Tục Nhị Đế
Đi Trên Đường Trắng – Cuộc Đời của Thiện ĐạoNiềm Tin
Lời của Người Tốt
Hoa, Thơ và Niệm Phật
Những Khóa Học về Thánh Điển – “Thán Dị sao”
Khêu Tỏ Ánh Sáng – Lời Dạy của Liên Như Thượng Nhơn
Và còn những tác phẩm khác nữa…
Địa chỉ hiện tại
5-21 ABENO MOTOCHO 
ABENOKU OSAKASHI – JAPAN
 
III. Nhà Xuất Bản
Sách tiếng Nhật: 
“Tinh Độc – Lời Dạy Qua Phật Giáo của Thân Loan”
Phát hành lần thứ nhất vào ngày 10 tháng 7 năm Bình Thành thứ 11, nhằm năm 1999.
Phát hành lần thứ tư vào ngày 5 tháng 8 năm Bình Thành thứ 17, nhằm năm 2005.
 Nguyên tác (Trứ tác): Kakehashi Jitsuen
 Người phát hành: Ishihara Omichi
 Nơi ấn loát: Tam Hiệp Mỹ Thuật ấn loát
 Châu Thức Hội Xã
 Nơi phát hành: Hữu Hạn Hội Xã: 
 Đại Pháp Luân Các 
 Higashi 2-5-36 Oizumi Building
 Shibuyaku – Tokyoto – Japan 
 Telephone: 03-5466-1401
 ISBN 4-8046-4102-5 C0315
Bản dịch ra tiếng Việt
Xin phép tác giả Kakehashi Jitsuen
Từ: T.T. Thích Như Điển 
Kính gởi Ngài Kakehashi Jitsuen 
Australia, Sydney ngày 23.12.2006
Xin vô cùng thất lễ để viết lá thư nầy, vì đối với Tiên Sinh là một sự đường đột.
Thật ra xin tự giới thiệu về mình một ít để Tiên Sinh rõ.
Tôi là Tăng Sĩ Phật Giáo Việt Nam sinh năm 1949. Lúc 15 tuổi xuất gia và năm 1971 đã thọ giới Tỳ Kheo tại Việt Nam. Đến năm 1972 tôi sang du học tại Nhật Bản, sau đó tốt nghiệp Cử Nhân Phân Khoa Giáo Dục của Đại Học Teikyo, Haichioji Tokyo. Liền sau đó tôi đã thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Phật Giáo Risso và cũng vào mùa hè năm đó tôi đã đến Đức và ở tại thành phố Hannover từ ấy cho đến nay. Khi tôi còn ở Nhật đã ở chùa Nhật Liên Tông Honryuji tại thành phố Hachioji trong suốt 5 năm.
Tuy tôi đã xa Nhật gần 30 năm, nhưng tôi vẫn muốn nghiên cứu về Phật Giáo Nhật Bản để dịch những sách tiếng Nhật ra tiếng Việt. Năm nay trong 3 tháng nhập thất tại Sydney Úc Đại Lợi, tôi cố gắng đọc quyển sách mà Tiên Sinh đã viết về Tịnh Độ Tông, đặc biệt là về Ngài Thân Loan Thánh Nhơn và tôi rất lấy làm vui thích để dịch quyển sách nầy sang tiếng Việt. Sau đó sẽ được xuất bản tại ngoại quốc và phân phối đến những tín đồ Phật Giáo Việt Nam như là phần ấn tống không lấy tiền. Do vậy tôi viết thư nầy để xin sự đồng ý của Tiên Sinh cho việc xuất bản nầy.
Khoảng cuối năm 2007 quyển sách nầy sẽ in xong và lúc ấy tôi sẽ gởi tặng Tiên Sinh một quyển để làm kỷ niệm. Lá thư nầy tôi đã nhờ ban biên tập của nhà Xuất Bản Đại Pháp Luân Các chuyển hộ. Kính mong Tiên Sinh hoan hỷ và nhận cho sự cảm tạ nầy. 
Xin chấp hai tay
Thích Như Điển
Phương Trượng chùa Viên Giác 
Hannover Đức quốc

Bản dịch ra tiếng Việt
Xin phép nhà Xuất Bản Đại Pháp Luân Các
Từ: T.T. Thích Như Điển 
Kính gởi Ông / Bà Naoki Kamada
Australia, Sydney ngày 23.12.2006
Vào cuối tháng 12 năm 2005 vừa qua tôi đã nhận được thư trả lời của Tiên Sinh gởi từ Nhật Bản. Xin chân thành cảm ơn về điều nầy.
Lá thơ của Tiên Sinh cũng được đăng tải trong quyển sách đã được dịch sang tiếng Việt.
Năm nay tôi cũng muốn dịch sách về Tịnh Độ Tông của Nhật Bản;nên tôi cũng đã dịch xong quyển Thân Loan Thánh Nhơn của Ngài Kakehashi Jitsuen viết. Lý do viết lá thư nầy đến Tiên Sinh và Ban Biên Tập Đại Pháp Luân Các là xin sự đồng ý vậy.
Sang năm (2007) và những năm đến nữa, với khả năng có thể, tôi cũng muốn dịch sang tiếng Việt những sách về Tào Động Tông, Nhật Liên Tông, Chơn Ngôn Tông v.v…, của Nhật Bản và khi ấy cũng mong được sự đón nhận sự đồng ý của quý vị như vậy.
Những tín đồ Phật Giáo Việt Nam hiện ở hải ngoại, họ muốn biết về Phật Giáo Nhật Bản, nên tôi cũng cố gắng. Hầu như toàn bộ sách nầy đều ấn hành không lấy tiền như là ý nghĩa của sự cúng dường pháp vậy.
Đồng thời xin vui lòng gởi lá thư đính kèm cho Tiên Sinh Kakehashi Jitsuen. Chắc quý vị không từ chối? Trong phong bì nầy có hai quyển sách dịch về Thiền Lâm Tế. Trong đó một quyển xin gởi tặng đến Tiên Sinh Matsubara Taidoo và quyển còn lại xin gởi tặng đến nhà Xuất Bản Đại Pháp Luân Các như là một quà kỷ niệm.
Vậy xin thất lễ và xin dứt lời nơi đây.
Thích Như Điển
 Tu sĩ Việt Nam từ nước Đức
 
[1] Seikaku Hoin
[2] Luật Sư Ryukan
[3] Lời dạy của bậc Thánh
[4] Luân lý đối với con người 
[5] Nghĩa là nhớ nghĩ giữa Phật và Phật.
[6] Tác giả Kakehashi
[7] Tôi là tác giả Kakehashi
[8] Koyama Hirori
[9] Nhằm năm 1998
[10] Năm 1999
[11] Heisei
[12] Đệ Thật Viên
[13] Showa
[14] Tiếng Nhựt dùng là trụ chức, chứ không dùng chữ trụ trì
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 490)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 474)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 451)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 521)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 323)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 439)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 787)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1115)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1435)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1163)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1087)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2288)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1492)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1768)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2168)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1876)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2584)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4722)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2614)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6299)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3233)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3037)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2885)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3665)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3170)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8049)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2829)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8467)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4388)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8096)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6666)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11163)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22777)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5238)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11709)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11339)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12541)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34549)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32706)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22113)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12482)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11825)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10334)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10808)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11771)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11671)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10888)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10669)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11360)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7174)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6511)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7211)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5717)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6407)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6001)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9358)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5881)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5859)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5614)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant