Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 10

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 9960)
Phần 10

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 10)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ ba, “Quảng tu cúng dường”

Bồ tát tu bố thí đối với tất cả chúng sanh, Bồ tát Phổ Hiền không tu bố thí mà ngài tu cúng dường. Người thông thường chúng ta đối với Phật, Bồ tát, trưởng bối mới cúng dường, còn đối với đồng bạn và mọi người thường, chúng ta đều bố thí. Kỳ thật bố thí cùng cúng dường chỉ là một việc. Nếu tâm không như nhau, một thì cung kính, một thì không, như vậy không đạt đến được tiêu chuẩn của Phổ Hiền, vẫn gọi là bố thí, chưa phải là cúng dường. Cho nên phải đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền, chân thành cung kính. Trong hạnh Phổ Hiền, bố thí đối với tất cả chúng sanh đều với tâm trạng cung kính cúng dường cho chư Phật. Chúng ta phải nên học đặc biệtbố thí cho người dưới, những người nghèo khổ. Thấy người nghèo khổ, thậm chí người ăn mày, chúng ta bố thí cho họ đều phải dùng cái tâm cung kínhbố thí như cúng dường cho chư Phật, đó chính là đang tu “Quảng tu cúng dường”.

Kinh Hoa Nghiêm giảng rất tường tận, dùng tâm Phổ Hiền tu bố thí chính là “Quảng tu cúng dường”. Để nói pháp phương tiện khởi kiến, Phật đem vô lượng vô biên sự tướng này quy nạp thành ba loại lớn, đó là: bố thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô uý. Trong cúng dường cũng vậy, có cúng dường tài, cúng dường pháp, vô uý bao gồm ở trong tài và pháp. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyệnđặc biệt đưa ra một loạt so sánh công đức thù thắng. Trong kinh Hoa Nghiêm, ngài nói: dù dùng bảy báu của đại thiên thế giới bố thí cũng không thể so với bố thí một câu pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Kim Cang Bát Nhã cũng nói như vậy, “bố thí bảy báu đại thiên thế giới, công đức không bằng nói cho người nghe bốn câu kệ”. Chúng ta vì người nói bốn câu kệ chính là tùy tiện nói bốn câu nào đó trong kinh Kim Cang, “vì người diễn nói”. Công đức này vượt qua những bố thí thông thường, thậm chí cả bố thí bảy báu của đại thiên thế giới.

Có thật công đức lớn đến như vậy sao? Tôi không tin! Không những tôi không tin mà không có người nào tin. Xem trong xã hội ngày nay, tu một ít tài bố thí, làm một ít việc từ thiện, thì báo chí, tạp chí, truyền hình đều tán dương. Ra ngoài, người đó trở thành đại thiện, không ai không tán thán bạn. Còn người bố thí pháp, đừng nói bốn câu kệ, dù giảng hết một bộ kinh thì khi đi ra ngoài cũng không ai biết đến, không ai cung kính, xem trọng. Người thế gian chỉ xem sự tướng trước mắt, không hề thấy nhân quả về sau. Sự việc này, Phật rất tường tận, thông suốt. Lời Phật nói ngàn vạn lần chính xác, một chút cũng không sai, bố thí bảy báu của đại thiên thế giới chúng sanh có được chỉ giải quyết một ít khó khăn trong đời sống trước mắt. Hay nói cách khác, họ đáng luân hồi thế nào thì vẫn phải luân hồi như thế, đáng sanh tử thế nào vẫn phải sanh tử như thế, không giải quyết được vấn đề. Có chăng cũng chỉ giải quyết được chút vấn đềđời sống vật chất hiện tại mà thôi. Người khác không có chỗ ở, chúng ta xây phòng ốc cho họ; họ không có cái ăn, chúng ta cúng dường cái ăn cho họ, như thế chỉ giải quyết những khó khăn tạm thời. Nhưng nghe bốn câu kệ hay một câu kinh Phật, “một khi nghe qua tai, mãi mãi trồng căn lành”, công đức này nhất định không tiêu mất. Phật dùng hạt giống kim cang gieo vào A Lại Da của chúng ta. Ngay đời này dù chúng ta không được lợi ích thì đời sau gặp được Phật pháp, chúng ta tiếp tục tu mà thành tựu. Nếu đời sau không được lợi ích thì còn đời sau nữa, thậm chí đến vô lượng kiếp sau sẽ có một ngày gặp được nhân duyên chín muồi. Nhờ vào nhân duyên nghe kinh, chúng ta liền siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới thành Phật làm tổ, công đức lợi ích này tuyệt đối bảy báu của tam thiên đại thiên thế giới không thể so bì.

Phật nói không hề sai, bố thí tài không bằng pháp thí. Nếu chúng ta muốn tu công đức thù thắng, nhất định phải tu bố thí pháp. Vậy không biết giảng kinh thì làm sao bố thí pháp? Không biết giảng kinh, nhưng chúng ta biết niệm Phật A Di Đà. Suốt ngày bố thí pháp này cho biết bao người trong khi chúng ta nói chuyện với họ. Đó là bố thí cho họ. Hiện tại chúng ta mỗi ngày đều không rời điện thoại. Khi vừa cầm đến điện thoại thì “A Di Đà Phật”, mỗi câu A Di Đà Phật gieo vào A Lại Da Thức của đối phương, tương lai họ sẽ nhờ câu A Di Đà Phật này mà vãng sanh bất thoái thành Phật. Đặc biệt khi duyên thù thắng, một đời này họ thành tựu. Nếu duyên không thù thắng thì đời sau thành tựu, nhất định được độ, nhất định vãng sanh.

Ngày nay người tin theo tà giáo không ít. Một số đồng tu hỏi tôi: “Người tà giáo muốn xin sách chúng ta, chúng ta có nên cho họ hay không?”. Cứ cho đi. Vì sao? Cho họ chính là độ họ. Dù họ tà ác thế nào, khi nghe được âm thanh danh hiệu A Di Đà Phật, thấy hình tượng A Di Đà Phật thì tà cũng được độ. Ngay đời này tà, họ phải chịu quả báo địa ngục A Tỳ. Quả báo chịu xong vẫn cứ gặp được Phật pháp, vẫn cứ được độ.

Dường như năm trước, ngay nơi đây, tôi giảng qua một lầnPhát khởi Bồ tát thù thắng chí nhạo kinh”. Mở đầu kinh văn, Phật nêu ra một thí dụ, có người nói xấu hủy báng hai vị tỳ kheo. Hai vị này là pháp sư giảng kinh. Người nói xấu nói: “hai vị tỳ kheo này phá giới, không có đức hạnh” khiến người nghe mất tín tâm đối với hai vị pháp sư này, dẫn đến phá hoại pháp hội đạo tràng. Sau đó người tạo tội nghiệp đọa địa ngục một ngàn tám trăm vạn năm. Một ngàn tám trăm vạn năm là niên số của nhân gian chúng ta, họ nhận chịu khổ đau trong địa ngục vô lượng kiếp. Sau một ngàn tám trăm vạn năm còn phải chịu dư báo chính là ngạ quỷ súc sanh. Đến nhân gian còn chịu ác báo, dư báo báo tận mới có lại được thân người, gặp lại được Phật pháp.

Việc này là vào thời đại của Phật Câu Lưu Tôn. Mới biết được, tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ, vì chúng ta làm mất đi cơ duyên nghe pháp của người khác, làm cho một người ở ngay trong một đời bị phá đi cơ hội được độ. Tội nghiệp này rất nặng, cho nên cảm chịu khổ báo thời gian dài đến như vậy. Thế nhưng sau khi tội báo hết, tất nhiên trong A Lại Da thức của người đó còn có chủng tử của Phật. Chịu xong quả báo, người đó còn được dựa vào hạt giống kim cang này, tu hành chứng quả, vãng sanh bất thoái thành Phật. Không ai không được độ. Chúng ta phải biết, người tạo tác tội nghiệp chỉ có một đoạn khổ nạn phải chịu, nhận xong đoạn khổ nạn này, họ vẫn là bằng hữu của Hải hội Liên Trì Tây Phương, vẫn phải gặp mặt. Còn đoạn khổ nạn này họ không cách gì tránh khỏi.

Các vị đồng tu tường tận những đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật thì nên cảnh giác, thiện nhất định phải tu, ác nhất định không làm. Thà bỏ thân mạng cũng không làm ác. Sinh mạng không đáng tiếc, thiện căn, phước đức, nhân duyên là quan trọng, nhất định phải giữ lấy. Bồ tát Phổ Hiền nói pháp cúng dường, pháp cúng dường cũng rất rộng lớn. Trong “phẩm Hạnh Nguyện”, chúng ta nghe bảy đại cương, Bồ tát đại từ đại bi đều muốn chúng ta ngay cuộc sống thường ngày biết bắt đầu học từ đâu trong bảy cương lĩnh này. Bắt đầu từ “Như giáo tu hành cúng dường”. Chúng ta dùng cái gì cúng dường Phật Bồ tát, dùng cái gì cúng dường xã hội đại chúng và tất cả chúng sanh hữu tình? “Như giáo tu hành” chính là đặc biệt đề cao bộ kinh Vô Lượng Thọ, mỗi câu mỗi chữ thảy đều làm được. Kệ khai kinh mỗi ngày đều đọc “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, cái lý này rất sâu, rất rộng. Chúng ta đối với lý sự không tường tận thấu đáo, tuy đọc kinh nhưng thường hay bỏ lỡ, sơ sài qua loa, không nắm ý nghĩa, không nắm cảnh giới trong đó, không biết từ bi của Phật Bồ tát. Nếu thảy đều tường tận, thảy đều thấu hiểu, tự nhiên chúng ta liền sẽ lo tu học. Phật thường hay nói trên kinh Đại thừathâm giải nghĩa thú”, nếu không giảng tỉ mỉ, chúng ta mãi mãimơ hồ hồ. Cả đời tuy học Phật cũng không có lợi ích, còn phải dựa vào nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp về sau, như thế liệu có đáng lo không? Cho nên lãng phí một ít thời gian cũng thật xứng đáng.

Người thế gian không ai không cầu phước báu. Phước từ đâu mà có? Phước do chính mình tu được. Tu bố thí, cúng dường. Bố thí cúng dường thực chất chỉ là một, chỉ chút khác biệt ở nơi dụng tâm. Thông thường phàm phu chúng ta đối với tôn trưởng, với Phật Bồ tát thì cúng dường, còn đối với ngang hàng thì gọi là bố thí. Do đây có thể biết khi cúng dường, tâm địa chân thành cung kính. Nhưng khi bố thí thì tâm cung kính liền hạ thấp xuống, thậm chí hoàn toàn không cung kính, còn sanh tâm ngạo mạn để bố thí. Dĩ nhiên thí chủ đều có thể được phước. Nhưng người dùng tâm cung kính để tu bố thí như tu cúng dường, phước báu có được vô cùng thù thắng. Bồ tát Phổ Hiền dạy “Quảng tu cúng dường”, rõ ràng ngài không nói bố thí, để chúng ta đối với tất cả chúng sanh xuẩn động hàm linh đều dùng tâm cung kính cúng dường giống như chư Phật Như Lai vậy. Việc này chúng ta phải nên học tập. Bố thí cúng dường có thể được phân làm ba loại lớn.

1. Thứ nhất, tài bố thí

Phát tâm bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo chính là tiền của. Rất nhiều hào môn quý tộc, đại phú trưởng giả trong xã hội ngày nay có của cải hùng hậu. Của cải này do đâu mà có? Họ tự kiếm ra hay vận may đến, và tại sao chúng ta không kiếm ra được? Xin nói thành thật, của cải này trong mệnh đều có. Trong mệnh của họ có, không luận từ nghề nghiệp nào. Nghề nghiệp chỉ là cái duyên. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng có thể kiếm ra tiền, đều có thể giàu sang. Nếu trong mệnh không có, người ta đem tặng bạn cả ngân hàng cũng không qua được hai tháng là phá sản. Đạo lý này phải hiểu. Tiền của không phải do tranh giành mà được cũng không phải có thể kiếm ra. Tôi nghe nói có một quyển sách xuất bản tên là “Chí phú bí quyết”. Đó đều là giả. Chúng ta mua về xem chỉ giúp họ phát tài vì bán được sách, ngoài ra không có lợi ích gì. Tất cả phải có trong mệnh, thời xưa nói “Công danh phải có mệnh”. Công danh chính ngày nay chúng ta gọi là học vị. Học vị là do mệnh, làm quan cũng do mệnh, phát tài nhiều ít cũng do mệnh. Làm sao trong mệnh của họ có được? Vì nhân đời trước đã trồng, họ trồng cái nhân thù thắng nên quả báo đời này thù thắng. Nhân không thù thắng thì quả báo cũng liền có kém khuyết. Do đây có thể biết, tu nhân mới có được quả.

Cho nên Phật dạy bảo chúng ta, tu tài bố thí thì được tiền của, tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Tiền cũng cần, thông minh cũng cần, khoẻ mạnh sống lâu càng cần hơn, nói chung ba thứ quả báo này đều cần đến. Nếu không tu ba loại nhân này, ngày ngày khởi vọng tưởng thì không thể thành tựu được. Có cầu Phật Bồ tát, Phật Bồ tát cũng không thể nào giúp đỡ. Nên nhớ, Phật Bồ tát không thể ban phước cho chúng ta. Nếu trong mệnh không có, Phật Bồ tát đến ban cho chúng ta, vậy thì con người cần gì phải tu nữa. Mỗi ngày nịnh bợ Phật Bồ tát là được? Không hề có việc này, nịnh bợ cũng vô ích. Phật Bồ tát thương mà không thể giúp. Chúng ta thường nói: “được Phật Bồ tát bảo hộ, gia trì”. Sự bảo hộ, gia trì đó không gì khác hơn là đem những đạo lý này nói rõ, đem chân tướng sự thật nói tường tận cho chúng ta. Chúng ta hiểu được đạo lý, y theo phương pháp Phật dạy, chính mình tu tập thì liền có quả báo thù thắng, đó là gia trì của Phật Bồ tát, vạn nhất không nên mê tín.

Do đó, người chân thật thông hiểu, chân thật giác ngộ sẽ biết nên đặt tiền ở đâu cho tốt. Xã hội hiện tại thường đầu tư vào cổ phiếu, đất đai, đủ loại phương pháp để kinh doanh tiền của. Trong hai năm kinh tế không, một trăm vạn biến thành mười vạn, dẫn đến rất nhiều người tự sát. Kinh Phật nói: “Tài vi năm nhà cộng hữu”, không phải chúng tatiền của, chẳng qua là tiền của hiện ra trước mắt để chúng ta xem thấy và cảm giác nó thuộc sở hữu của mình mà thôi. Phật dạy bố thí, cúng dường cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, bố thí tất cả chúng sanh, tiền của chúng ta sẽ không bao giờ thiếu. Phải ghi nhớ, tiền dùng không thiếu là tốt, không cần phải tích luỹ, không cần nhiều. Nhiều tiền của, tai nạn liền đến, cho nên phải biết xả tài. Nhà Nho cũng nói “tích nhi năng tán”, xả ra mới là người thông minh. Người Trung Quốc hay cúng thần tài, ai cũng muốn phát tài, nhưng người thời trước có trí tuệ, thông minh, họ không mê tín.

Hiện tại người ta cúng thần tài, thậm chí cúng Quan Công, Quan Vũ thời Tam Quốc. Quan Công với phát tài có quan hệ gì chứ? Chẳng quan hệ gì. Quan phu tử không có sở trường gì nhưng ông làm được trung nghĩa, oai vũ bất phục, phú quý không màng, là mô phạm để chúng ta học theo. Khoảng thời gian ông ở nơi Tào Tháo, Tào Tháo đã dùng hết tâm sức, hy vọng ông đầu hàng. Thế nhưng Quan phu tử tuy thân ở Tào dinh nhưng tâm thường hay nhớ đến hiền chủ. Đây là mô phạm tốt nhất cho người đời sau. Tuy ngài vượt năm quan, trảm sáu tướng về đến Hiền chủ, Tào Tháo vẫn rất bội phục đối với ông. Người trung nghĩa như vậy, trên thế gian rất khó tìm. Không những hiện tại không có mà vào thời xưa cũng rất ít. Người hiện tại thấy lợi thì quên nghĩa, chỗ nào đãi ngộ tốt, địa vị cao một chút thì lập tức chạy theo. Những người như vậy đều phải cúng dường Quan phu tử, mỗi ngày nhìn thấy ngài liền sanh tâm hổ thẹn.

Trung Quốc thời xưa cúng thần tài. Thần tài là Phạm Nặc, ông thuộc thời đại chiến quốc, đại phu của Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương cũng tương đối cừ khôi. Chúng ta phải nên biết từ xưa đến nay, anh hùng hào kiệt xây dựng một chánh quyền chẳng phải là việc thật khó, nhưng việc phục hưng một quốc gia đã diệt vong mới là rất khó và hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Việt Vương Câu Tiễn là điển hình thành công. Sau khi bị nước Ngô tiêu diệt, ông vẫn có thể phục hưng trở lại, có thể báo được thù, tất cả đều nhờ Phạm Nặc và Văn Chủng. Hai người này trợ giúp Việt Vương hồi phục quốc gia, tiêu diệt nước Ngô. Phạm Nặc là người thông minh, sau khi đại công cáo thành, ông liền khuyên Văn Chủng phải mau rời khỏi Việt Vương Câu Tiễn. Ông nhận biết rất rõ ràng con người này chỉ có thể cùng hoạn nạn, không thể cùng phú quý. Ông khuyên Văn Chủng phải rời khỏi, bảo toàn tánh mạng của chính mình. Việt Vương Câu Tiễn vào lúc hoạn nạn luôn xem trọng những người tài năng, đến khi thiên hạ thái bình, Việt Vương không cần, thậm chí luôn tìm biện pháp loại trừ vì sợ họ tạo phản. Phạm Nặc thông minh nên tự mình rời bỏ, để lại một bức thư cho Văn Chủng. Văn Chủng xem xong cho rằng không nghiêm trọng như ông đã nói. Kết quả không ngoài dự đoán của Phạm Nặc, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng tự chết. Mỗi triều đại Trung Quốc gần như đều có việc giết công thần. Phạm Nặc lén trốn đi, đổi tên đổi họ thành Đào Chu Công. Ông làm nghề buôn bán, không bao lâu, ông phát tài to. Sau khi phát tài, ông đem tất cả tiền của ra bố thí, cứu tế bần khổ. Từ buôn bán nhỏ, ông làm vài năm lại phát tài, phát tài rồi lại bố thí, sách sử ghi chép “Tam tụ Tam tán”. Ông có thể tán tài ra, bố thí ân đức, đây là tấm gương tốt cho người buôn bán. Người làm buôn bán kiếm được tiền của xã hội, hoàn trả về cho xã hội, cho nên cúng dường ngài là thần tài rất có đạo lý.

Chúng ta kinh doanh buôn bán, phải lấy Phạm Nặc làm mô phạm. Ông là người có trí tuệ, có học vấn, không luận làm bất cứ việc gì ông đều thành công. Cho nên phải hiểu tán tài, biết kết ân huệ với tất cả chúng sanh, trong Phật pháp chúng ta gọi là kết duyên, khi chúng sanh nhận ân huệ thì chúng ta có thể gặp nạn hay sao? Không thể. Không có gì ăn sẽ tự nhiên có người đưa đồ ăn đến, không quần áo mặc sẽ có người đưa quần áo đến, không thiếu thứ nào. Thậm chí không có nhà ở cũng sẽ có người đưa nhà cho ở, vô cùng tự tại. Chỉ cần chịu tu bố thí thì phước báu tự nhiên. Cho nên không cần đầu tư tiền vào ngân hàng, để ở đâu cũng không đáng tin bằng bố thí cho tất cả chúng sanh. Nhất định số tiền đó không thể mất, hơn nữa còn có lợi tức gấp nhiều hơn lợi tức trong bất cứ hình thức đầu tư buôn bán nào. Tôi nói lời này là lời chân thật.

Bản thân tôi là thí dụ, mười phương cúng dường đến cho tôi, tôi thảy đều đem bố thí hết. Tôi đến bất cứ nơi nào, trên người không cần mang theo một đồng, nghĩ cái gì thì người ta đều đưa đến cúng dường, thậm chí dùng không hết. Thật tự tại. Thọ dụng trên đời sống vật chất là tuỳ tâm sở dục. Bản thân tôi đời trước không có phước. Phước báu này của tôi là tu được từ lúc nào? Sau khi học Phật hiểu rõ được đạo lý tôi mới thật làm, vậy thì phương pháp bố thí này, đại sư Chương Gia dạy cho tôi, tôi thật làm, đã làm rất có hiệu quả, tôi tin sâu không nghi, chân thật tin tưởng, đại sư dạy tôi “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Chỉ cần chịu bố thí, đến khi thiếu kém thứ gì, trong lòng vừa nghĩ thì liền có người đưa đến. Những năm đầu tu tương đối ít nhưng tôi cũng đã có cảm ứng. Khi tôi đang cầu học, đời sống rất gian khổ khó khăn. Tôi mong muốn kinh sách, muốn nghiên cứu kinh giáo, trong lòng vừa nghĩ thì đại khái không đến một tháng có người mang đến. Đến nay tôi chỉ nhớ lần thời gian dài nhất là sáu tháng tôi mới có được quyển sách mình cần, đó là quyển Trung Quán Luận Sớ. Còn các quyển khác như Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, tôi vừa mới học Phật, trong lòng nghĩ muốn thì liền sau một tháng có người mang đến. Chân thậtHữu cầu tất ứng”. Miễn là mong cầu đó đúng lý đúng pháp thì đều cảm ứng. Tôi luôn hiểu rõ đạo lý này, thấu suốt chân tướng sự thật.

Nhiều năm đến nay kể từ 26 tuổi học Phật, lão sư dạy bảo, tôi chăm chỉ làm, càng làm cảm ứng càng không thể nghĩ bàn. Cho nên từng câu từng chữ trên kinh Phật, tôi tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, rồi chính mình được lợi ích. Bố thí tài được tài phú, bố thí ăn uống thì được ăn uống, bố thí quần áo được quần áo, bố thí phòng ốc được phòng ốc, linh nghiệm vô cùng. Bố thí Phật pháp được thông minh trí tuệ, được biện tài vô ngại, đó là điều mọi người đều cần đến. Chúng ta phải tu pháp bố thí, cúng dường. Bố thí vô uý rất đơn giản, thuận tiện chính là ăn chay. Ăn chay để từ nay về sau không hại tất cả chúng sanh. Tuy Phật pháp không khuyên người ăn trường chay, Phật chỉ khuyên không sát sanh, không hề khuyên tránh ăn thịt. Bởi vì năm xưa, tăng đoàn của Thế Tôn mỗi ngày bưng bình bát đi khất thực, Phật pháptừ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, người ta cúng dường thứ gì thì phải ăn thứ đó. Hiện tại các quốc gia Tiểu thừa Phật giáo như TháiLan, Xilanka đều khất thực, họ vẫn ăn thịt, không phân biệt cũng không chấp trước. Tuyệt nhiên không được yêu cầu tín đồ phải làm thức ăn chay cho mình. Như vậy quá phiền cho tín chủ

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14714)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46227)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21071)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23436)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18931)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15420)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15320)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33262)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34405)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23617)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30052)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32705)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58668)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14206)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11381)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31009)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25315)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22788)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17685)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42186)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11316)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27375)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12280)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29168)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22768)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17337)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26335)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13203)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28952)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18771)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46414)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13851)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29998)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22832)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12539)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37289)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36955)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant