Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 10

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 9962)
Phần 10

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 10)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ ba, “Quảng tu cúng dường”

Bồ tát tu bố thí đối với tất cả chúng sanh, Bồ tát Phổ Hiền không tu bố thí mà ngài tu cúng dường. Người thông thường chúng ta đối với Phật, Bồ tát, trưởng bối mới cúng dường, còn đối với đồng bạn và mọi người thường, chúng ta đều bố thí. Kỳ thật bố thí cùng cúng dường chỉ là một việc. Nếu tâm không như nhau, một thì cung kính, một thì không, như vậy không đạt đến được tiêu chuẩn của Phổ Hiền, vẫn gọi là bố thí, chưa phải là cúng dường. Cho nên phải đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền, chân thành cung kính. Trong hạnh Phổ Hiền, bố thí đối với tất cả chúng sanh đều với tâm trạng cung kính cúng dường cho chư Phật. Chúng ta phải nên học đặc biệtbố thí cho người dưới, những người nghèo khổ. Thấy người nghèo khổ, thậm chí người ăn mày, chúng ta bố thí cho họ đều phải dùng cái tâm cung kínhbố thí như cúng dường cho chư Phật, đó chính là đang tu “Quảng tu cúng dường”.

Kinh Hoa Nghiêm giảng rất tường tận, dùng tâm Phổ Hiền tu bố thí chính là “Quảng tu cúng dường”. Để nói pháp phương tiện khởi kiến, Phật đem vô lượng vô biên sự tướng này quy nạp thành ba loại lớn, đó là: bố thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô uý. Trong cúng dường cũng vậy, có cúng dường tài, cúng dường pháp, vô uý bao gồm ở trong tài và pháp. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyệnđặc biệt đưa ra một loạt so sánh công đức thù thắng. Trong kinh Hoa Nghiêm, ngài nói: dù dùng bảy báu của đại thiên thế giới bố thí cũng không thể so với bố thí một câu pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni trong kinh Kim Cang Bát Nhã cũng nói như vậy, “bố thí bảy báu đại thiên thế giới, công đức không bằng nói cho người nghe bốn câu kệ”. Chúng ta vì người nói bốn câu kệ chính là tùy tiện nói bốn câu nào đó trong kinh Kim Cang, “vì người diễn nói”. Công đức này vượt qua những bố thí thông thường, thậm chí cả bố thí bảy báu của đại thiên thế giới.

Có thật công đức lớn đến như vậy sao? Tôi không tin! Không những tôi không tin mà không có người nào tin. Xem trong xã hội ngày nay, tu một ít tài bố thí, làm một ít việc từ thiện, thì báo chí, tạp chí, truyền hình đều tán dương. Ra ngoài, người đó trở thành đại thiện, không ai không tán thán bạn. Còn người bố thí pháp, đừng nói bốn câu kệ, dù giảng hết một bộ kinh thì khi đi ra ngoài cũng không ai biết đến, không ai cung kính, xem trọng. Người thế gian chỉ xem sự tướng trước mắt, không hề thấy nhân quả về sau. Sự việc này, Phật rất tường tận, thông suốt. Lời Phật nói ngàn vạn lần chính xác, một chút cũng không sai, bố thí bảy báu của đại thiên thế giới chúng sanh có được chỉ giải quyết một ít khó khăn trong đời sống trước mắt. Hay nói cách khác, họ đáng luân hồi thế nào thì vẫn phải luân hồi như thế, đáng sanh tử thế nào vẫn phải sanh tử như thế, không giải quyết được vấn đề. Có chăng cũng chỉ giải quyết được chút vấn đềđời sống vật chất hiện tại mà thôi. Người khác không có chỗ ở, chúng ta xây phòng ốc cho họ; họ không có cái ăn, chúng ta cúng dường cái ăn cho họ, như thế chỉ giải quyết những khó khăn tạm thời. Nhưng nghe bốn câu kệ hay một câu kinh Phật, “một khi nghe qua tai, mãi mãi trồng căn lành”, công đức này nhất định không tiêu mất. Phật dùng hạt giống kim cang gieo vào A Lại Da của chúng ta. Ngay đời này dù chúng ta không được lợi ích thì đời sau gặp được Phật pháp, chúng ta tiếp tục tu mà thành tựu. Nếu đời sau không được lợi ích thì còn đời sau nữa, thậm chí đến vô lượng kiếp sau sẽ có một ngày gặp được nhân duyên chín muồi. Nhờ vào nhân duyên nghe kinh, chúng ta liền siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới thành Phật làm tổ, công đức lợi ích này tuyệt đối bảy báu của tam thiên đại thiên thế giới không thể so bì.

Phật nói không hề sai, bố thí tài không bằng pháp thí. Nếu chúng ta muốn tu công đức thù thắng, nhất định phải tu bố thí pháp. Vậy không biết giảng kinh thì làm sao bố thí pháp? Không biết giảng kinh, nhưng chúng ta biết niệm Phật A Di Đà. Suốt ngày bố thí pháp này cho biết bao người trong khi chúng ta nói chuyện với họ. Đó là bố thí cho họ. Hiện tại chúng ta mỗi ngày đều không rời điện thoại. Khi vừa cầm đến điện thoại thì “A Di Đà Phật”, mỗi câu A Di Đà Phật gieo vào A Lại Da Thức của đối phương, tương lai họ sẽ nhờ câu A Di Đà Phật này mà vãng sanh bất thoái thành Phật. Đặc biệt khi duyên thù thắng, một đời này họ thành tựu. Nếu duyên không thù thắng thì đời sau thành tựu, nhất định được độ, nhất định vãng sanh.

Ngày nay người tin theo tà giáo không ít. Một số đồng tu hỏi tôi: “Người tà giáo muốn xin sách chúng ta, chúng ta có nên cho họ hay không?”. Cứ cho đi. Vì sao? Cho họ chính là độ họ. Dù họ tà ác thế nào, khi nghe được âm thanh danh hiệu A Di Đà Phật, thấy hình tượng A Di Đà Phật thì tà cũng được độ. Ngay đời này tà, họ phải chịu quả báo địa ngục A Tỳ. Quả báo chịu xong vẫn cứ gặp được Phật pháp, vẫn cứ được độ.

Dường như năm trước, ngay nơi đây, tôi giảng qua một lầnPhát khởi Bồ tát thù thắng chí nhạo kinh”. Mở đầu kinh văn, Phật nêu ra một thí dụ, có người nói xấu hủy báng hai vị tỳ kheo. Hai vị này là pháp sư giảng kinh. Người nói xấu nói: “hai vị tỳ kheo này phá giới, không có đức hạnh” khiến người nghe mất tín tâm đối với hai vị pháp sư này, dẫn đến phá hoại pháp hội đạo tràng. Sau đó người tạo tội nghiệp đọa địa ngục một ngàn tám trăm vạn năm. Một ngàn tám trăm vạn năm là niên số của nhân gian chúng ta, họ nhận chịu khổ đau trong địa ngục vô lượng kiếp. Sau một ngàn tám trăm vạn năm còn phải chịu dư báo chính là ngạ quỷ súc sanh. Đến nhân gian còn chịu ác báo, dư báo báo tận mới có lại được thân người, gặp lại được Phật pháp.

Việc này là vào thời đại của Phật Câu Lưu Tôn. Mới biết được, tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ, vì chúng ta làm mất đi cơ duyên nghe pháp của người khác, làm cho một người ở ngay trong một đời bị phá đi cơ hội được độ. Tội nghiệp này rất nặng, cho nên cảm chịu khổ báo thời gian dài đến như vậy. Thế nhưng sau khi tội báo hết, tất nhiên trong A Lại Da thức của người đó còn có chủng tử của Phật. Chịu xong quả báo, người đó còn được dựa vào hạt giống kim cang này, tu hành chứng quả, vãng sanh bất thoái thành Phật. Không ai không được độ. Chúng ta phải biết, người tạo tác tội nghiệp chỉ có một đoạn khổ nạn phải chịu, nhận xong đoạn khổ nạn này, họ vẫn là bằng hữu của Hải hội Liên Trì Tây Phương, vẫn phải gặp mặt. Còn đoạn khổ nạn này họ không cách gì tránh khỏi.

Các vị đồng tu tường tận những đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật thì nên cảnh giác, thiện nhất định phải tu, ác nhất định không làm. Thà bỏ thân mạng cũng không làm ác. Sinh mạng không đáng tiếc, thiện căn, phước đức, nhân duyên là quan trọng, nhất định phải giữ lấy. Bồ tát Phổ Hiền nói pháp cúng dường, pháp cúng dường cũng rất rộng lớn. Trong “phẩm Hạnh Nguyện”, chúng ta nghe bảy đại cương, Bồ tát đại từ đại bi đều muốn chúng ta ngay cuộc sống thường ngày biết bắt đầu học từ đâu trong bảy cương lĩnh này. Bắt đầu từ “Như giáo tu hành cúng dường”. Chúng ta dùng cái gì cúng dường Phật Bồ tát, dùng cái gì cúng dường xã hội đại chúng và tất cả chúng sanh hữu tình? “Như giáo tu hành” chính là đặc biệt đề cao bộ kinh Vô Lượng Thọ, mỗi câu mỗi chữ thảy đều làm được. Kệ khai kinh mỗi ngày đều đọc “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, cái lý này rất sâu, rất rộng. Chúng ta đối với lý sự không tường tận thấu đáo, tuy đọc kinh nhưng thường hay bỏ lỡ, sơ sài qua loa, không nắm ý nghĩa, không nắm cảnh giới trong đó, không biết từ bi của Phật Bồ tát. Nếu thảy đều tường tận, thảy đều thấu hiểu, tự nhiên chúng ta liền sẽ lo tu học. Phật thường hay nói trên kinh Đại thừathâm giải nghĩa thú”, nếu không giảng tỉ mỉ, chúng ta mãi mãimơ hồ hồ. Cả đời tuy học Phật cũng không có lợi ích, còn phải dựa vào nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp về sau, như thế liệu có đáng lo không? Cho nên lãng phí một ít thời gian cũng thật xứng đáng.

Người thế gian không ai không cầu phước báu. Phước từ đâu mà có? Phước do chính mình tu được. Tu bố thí, cúng dường. Bố thí cúng dường thực chất chỉ là một, chỉ chút khác biệt ở nơi dụng tâm. Thông thường phàm phu chúng ta đối với tôn trưởng, với Phật Bồ tát thì cúng dường, còn đối với ngang hàng thì gọi là bố thí. Do đây có thể biết khi cúng dường, tâm địa chân thành cung kính. Nhưng khi bố thí thì tâm cung kính liền hạ thấp xuống, thậm chí hoàn toàn không cung kính, còn sanh tâm ngạo mạn để bố thí. Dĩ nhiên thí chủ đều có thể được phước. Nhưng người dùng tâm cung kính để tu bố thí như tu cúng dường, phước báu có được vô cùng thù thắng. Bồ tát Phổ Hiền dạy “Quảng tu cúng dường”, rõ ràng ngài không nói bố thí, để chúng ta đối với tất cả chúng sanh xuẩn động hàm linh đều dùng tâm cung kính cúng dường giống như chư Phật Như Lai vậy. Việc này chúng ta phải nên học tập. Bố thí cúng dường có thể được phân làm ba loại lớn.

1. Thứ nhất, tài bố thí

Phát tâm bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo chính là tiền của. Rất nhiều hào môn quý tộc, đại phú trưởng giả trong xã hội ngày nay có của cải hùng hậu. Của cải này do đâu mà có? Họ tự kiếm ra hay vận may đến, và tại sao chúng ta không kiếm ra được? Xin nói thành thật, của cải này trong mệnh đều có. Trong mệnh của họ có, không luận từ nghề nghiệp nào. Nghề nghiệp chỉ là cái duyên. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng có thể kiếm ra tiền, đều có thể giàu sang. Nếu trong mệnh không có, người ta đem tặng bạn cả ngân hàng cũng không qua được hai tháng là phá sản. Đạo lý này phải hiểu. Tiền của không phải do tranh giành mà được cũng không phải có thể kiếm ra. Tôi nghe nói có một quyển sách xuất bản tên là “Chí phú bí quyết”. Đó đều là giả. Chúng ta mua về xem chỉ giúp họ phát tài vì bán được sách, ngoài ra không có lợi ích gì. Tất cả phải có trong mệnh, thời xưa nói “Công danh phải có mệnh”. Công danh chính ngày nay chúng ta gọi là học vị. Học vị là do mệnh, làm quan cũng do mệnh, phát tài nhiều ít cũng do mệnh. Làm sao trong mệnh của họ có được? Vì nhân đời trước đã trồng, họ trồng cái nhân thù thắng nên quả báo đời này thù thắng. Nhân không thù thắng thì quả báo cũng liền có kém khuyết. Do đây có thể biết, tu nhân mới có được quả.

Cho nên Phật dạy bảo chúng ta, tu tài bố thí thì được tiền của, tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Tiền cũng cần, thông minh cũng cần, khoẻ mạnh sống lâu càng cần hơn, nói chung ba thứ quả báo này đều cần đến. Nếu không tu ba loại nhân này, ngày ngày khởi vọng tưởng thì không thể thành tựu được. Có cầu Phật Bồ tát, Phật Bồ tát cũng không thể nào giúp đỡ. Nên nhớ, Phật Bồ tát không thể ban phước cho chúng ta. Nếu trong mệnh không có, Phật Bồ tát đến ban cho chúng ta, vậy thì con người cần gì phải tu nữa. Mỗi ngày nịnh bợ Phật Bồ tát là được? Không hề có việc này, nịnh bợ cũng vô ích. Phật Bồ tát thương mà không thể giúp. Chúng ta thường nói: “được Phật Bồ tát bảo hộ, gia trì”. Sự bảo hộ, gia trì đó không gì khác hơn là đem những đạo lý này nói rõ, đem chân tướng sự thật nói tường tận cho chúng ta. Chúng ta hiểu được đạo lý, y theo phương pháp Phật dạy, chính mình tu tập thì liền có quả báo thù thắng, đó là gia trì của Phật Bồ tát, vạn nhất không nên mê tín.

Do đó, người chân thật thông hiểu, chân thật giác ngộ sẽ biết nên đặt tiền ở đâu cho tốt. Xã hội hiện tại thường đầu tư vào cổ phiếu, đất đai, đủ loại phương pháp để kinh doanh tiền của. Trong hai năm kinh tế không, một trăm vạn biến thành mười vạn, dẫn đến rất nhiều người tự sát. Kinh Phật nói: “Tài vi năm nhà cộng hữu”, không phải chúng tatiền của, chẳng qua là tiền của hiện ra trước mắt để chúng ta xem thấy và cảm giác nó thuộc sở hữu của mình mà thôi. Phật dạy bố thí, cúng dường cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, bố thí tất cả chúng sanh, tiền của chúng ta sẽ không bao giờ thiếu. Phải ghi nhớ, tiền dùng không thiếu là tốt, không cần phải tích luỹ, không cần nhiều. Nhiều tiền của, tai nạn liền đến, cho nên phải biết xả tài. Nhà Nho cũng nói “tích nhi năng tán”, xả ra mới là người thông minh. Người Trung Quốc hay cúng thần tài, ai cũng muốn phát tài, nhưng người thời trước có trí tuệ, thông minh, họ không mê tín.

Hiện tại người ta cúng thần tài, thậm chí cúng Quan Công, Quan Vũ thời Tam Quốc. Quan Công với phát tài có quan hệ gì chứ? Chẳng quan hệ gì. Quan phu tử không có sở trường gì nhưng ông làm được trung nghĩa, oai vũ bất phục, phú quý không màng, là mô phạm để chúng ta học theo. Khoảng thời gian ông ở nơi Tào Tháo, Tào Tháo đã dùng hết tâm sức, hy vọng ông đầu hàng. Thế nhưng Quan phu tử tuy thân ở Tào dinh nhưng tâm thường hay nhớ đến hiền chủ. Đây là mô phạm tốt nhất cho người đời sau. Tuy ngài vượt năm quan, trảm sáu tướng về đến Hiền chủ, Tào Tháo vẫn rất bội phục đối với ông. Người trung nghĩa như vậy, trên thế gian rất khó tìm. Không những hiện tại không có mà vào thời xưa cũng rất ít. Người hiện tại thấy lợi thì quên nghĩa, chỗ nào đãi ngộ tốt, địa vị cao một chút thì lập tức chạy theo. Những người như vậy đều phải cúng dường Quan phu tử, mỗi ngày nhìn thấy ngài liền sanh tâm hổ thẹn.

Trung Quốc thời xưa cúng thần tài. Thần tài là Phạm Nặc, ông thuộc thời đại chiến quốc, đại phu của Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương cũng tương đối cừ khôi. Chúng ta phải nên biết từ xưa đến nay, anh hùng hào kiệt xây dựng một chánh quyền chẳng phải là việc thật khó, nhưng việc phục hưng một quốc gia đã diệt vong mới là rất khó và hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Việt Vương Câu Tiễn là điển hình thành công. Sau khi bị nước Ngô tiêu diệt, ông vẫn có thể phục hưng trở lại, có thể báo được thù, tất cả đều nhờ Phạm Nặc và Văn Chủng. Hai người này trợ giúp Việt Vương hồi phục quốc gia, tiêu diệt nước Ngô. Phạm Nặc là người thông minh, sau khi đại công cáo thành, ông liền khuyên Văn Chủng phải mau rời khỏi Việt Vương Câu Tiễn. Ông nhận biết rất rõ ràng con người này chỉ có thể cùng hoạn nạn, không thể cùng phú quý. Ông khuyên Văn Chủng phải rời khỏi, bảo toàn tánh mạng của chính mình. Việt Vương Câu Tiễn vào lúc hoạn nạn luôn xem trọng những người tài năng, đến khi thiên hạ thái bình, Việt Vương không cần, thậm chí luôn tìm biện pháp loại trừ vì sợ họ tạo phản. Phạm Nặc thông minh nên tự mình rời bỏ, để lại một bức thư cho Văn Chủng. Văn Chủng xem xong cho rằng không nghiêm trọng như ông đã nói. Kết quả không ngoài dự đoán của Phạm Nặc, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng tự chết. Mỗi triều đại Trung Quốc gần như đều có việc giết công thần. Phạm Nặc lén trốn đi, đổi tên đổi họ thành Đào Chu Công. Ông làm nghề buôn bán, không bao lâu, ông phát tài to. Sau khi phát tài, ông đem tất cả tiền của ra bố thí, cứu tế bần khổ. Từ buôn bán nhỏ, ông làm vài năm lại phát tài, phát tài rồi lại bố thí, sách sử ghi chép “Tam tụ Tam tán”. Ông có thể tán tài ra, bố thí ân đức, đây là tấm gương tốt cho người buôn bán. Người làm buôn bán kiếm được tiền của xã hội, hoàn trả về cho xã hội, cho nên cúng dường ngài là thần tài rất có đạo lý.

Chúng ta kinh doanh buôn bán, phải lấy Phạm Nặc làm mô phạm. Ông là người có trí tuệ, có học vấn, không luận làm bất cứ việc gì ông đều thành công. Cho nên phải hiểu tán tài, biết kết ân huệ với tất cả chúng sanh, trong Phật pháp chúng ta gọi là kết duyên, khi chúng sanh nhận ân huệ thì chúng ta có thể gặp nạn hay sao? Không thể. Không có gì ăn sẽ tự nhiên có người đưa đồ ăn đến, không quần áo mặc sẽ có người đưa quần áo đến, không thiếu thứ nào. Thậm chí không có nhà ở cũng sẽ có người đưa nhà cho ở, vô cùng tự tại. Chỉ cần chịu tu bố thí thì phước báu tự nhiên. Cho nên không cần đầu tư tiền vào ngân hàng, để ở đâu cũng không đáng tin bằng bố thí cho tất cả chúng sanh. Nhất định số tiền đó không thể mất, hơn nữa còn có lợi tức gấp nhiều hơn lợi tức trong bất cứ hình thức đầu tư buôn bán nào. Tôi nói lời này là lời chân thật.

Bản thân tôi là thí dụ, mười phương cúng dường đến cho tôi, tôi thảy đều đem bố thí hết. Tôi đến bất cứ nơi nào, trên người không cần mang theo một đồng, nghĩ cái gì thì người ta đều đưa đến cúng dường, thậm chí dùng không hết. Thật tự tại. Thọ dụng trên đời sống vật chất là tuỳ tâm sở dục. Bản thân tôi đời trước không có phước. Phước báu này của tôi là tu được từ lúc nào? Sau khi học Phật hiểu rõ được đạo lý tôi mới thật làm, vậy thì phương pháp bố thí này, đại sư Chương Gia dạy cho tôi, tôi thật làm, đã làm rất có hiệu quả, tôi tin sâu không nghi, chân thật tin tưởng, đại sư dạy tôi “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Chỉ cần chịu bố thí, đến khi thiếu kém thứ gì, trong lòng vừa nghĩ thì liền có người đưa đến. Những năm đầu tu tương đối ít nhưng tôi cũng đã có cảm ứng. Khi tôi đang cầu học, đời sống rất gian khổ khó khăn. Tôi mong muốn kinh sách, muốn nghiên cứu kinh giáo, trong lòng vừa nghĩ thì đại khái không đến một tháng có người mang đến. Đến nay tôi chỉ nhớ lần thời gian dài nhất là sáu tháng tôi mới có được quyển sách mình cần, đó là quyển Trung Quán Luận Sớ. Còn các quyển khác như Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, tôi vừa mới học Phật, trong lòng nghĩ muốn thì liền sau một tháng có người mang đến. Chân thậtHữu cầu tất ứng”. Miễn là mong cầu đó đúng lý đúng pháp thì đều cảm ứng. Tôi luôn hiểu rõ đạo lý này, thấu suốt chân tướng sự thật.

Nhiều năm đến nay kể từ 26 tuổi học Phật, lão sư dạy bảo, tôi chăm chỉ làm, càng làm cảm ứng càng không thể nghĩ bàn. Cho nên từng câu từng chữ trên kinh Phật, tôi tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, rồi chính mình được lợi ích. Bố thí tài được tài phú, bố thí ăn uống thì được ăn uống, bố thí quần áo được quần áo, bố thí phòng ốc được phòng ốc, linh nghiệm vô cùng. Bố thí Phật pháp được thông minh trí tuệ, được biện tài vô ngại, đó là điều mọi người đều cần đến. Chúng ta phải tu pháp bố thí, cúng dường. Bố thí vô uý rất đơn giản, thuận tiện chính là ăn chay. Ăn chay để từ nay về sau không hại tất cả chúng sanh. Tuy Phật pháp không khuyên người ăn trường chay, Phật chỉ khuyên không sát sanh, không hề khuyên tránh ăn thịt. Bởi vì năm xưa, tăng đoàn của Thế Tôn mỗi ngày bưng bình bát đi khất thực, Phật pháptừ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, người ta cúng dường thứ gì thì phải ăn thứ đó. Hiện tại các quốc gia Tiểu thừa Phật giáo như TháiLan, Xilanka đều khất thực, họ vẫn ăn thịt, không phân biệt cũng không chấp trước. Tuyệt nhiên không được yêu cầu tín đồ phải làm thức ăn chay cho mình. Như vậy quá phiền cho tín chủ

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 271)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 523)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 510)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 482)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 549)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 343)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 463)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 807)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1154)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1468)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1183)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1113)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2319)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1519)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1793)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2194)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1906)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2616)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4764)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2645)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6329)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3264)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3059)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2912)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3690)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3189)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8101)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2850)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8517)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4414)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8156)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6737)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11225)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22839)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5265)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11771)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11393)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12596)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34634)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32779)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22190)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12532)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11872)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10397)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10875)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11817)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11723)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10951)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10729)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11409)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7202)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6544)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7235)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5736)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6438)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6024)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9391)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5916)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5898)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5643)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant