Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiêu Chí Để Trở Thành Cư Dân Của Thế Giới Tịnh Độ

20 Tháng Mười Hai 202316:49(Xem: 539)
Tiêu Chí Để Trở Thành Cư Dân Của Thế Giới Tịnh Độ
Tiêu Chí Để Trở Thành Cư Dân Của  Thế Giới Tịnh Độ 

Thích Nữ
 Tịnh Trí


12


Dẫn nhập

Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giớitrong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển, giáo lý Phật giáo ngày càng ăn sâu vào tâm thức người hữu duyên thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Vào thời Lý-Trần, Phật giáo được xem là quốc giáo và hoằng dương mạnh mẽ nhờ sự ủng hộ của giới lãnh đạoPhật giáo có nhiều pháp môn tu tập để đáp ứng nhu cầu của quần chúng, nhưng có thể nói pháp mônTịnh độ phát triển và rất phổ biến đối với người dân từ xưa đến nay. Đây là điều khẳng định sự vi diệuthù thắng của tông Tịnh độSở dĩ vậy bởi đây là pháp môn luôn được xiển dương linh hoạtphù hợpvới mọi thành phần trong xã hội và ứng dụng nhiều trong thực tiễn.

NIỀM TIN CHÂN CHÁNH
Theo Phật giáovấn đề quan trọng nhất đối với các hành giả học Phật là “đến để thấy và biết” chứ không phải “đến để tin”, bởi một niềm tin nếu khôngđược xây dựng trên sự thấy biết chân chánh đúng pháp sẽ trở nên mù quángtiêu cực, không đem đến sự đoạn tận khổ đau. Đức Phật chủ trương giải thoát khổ đau có mặt trên đời này chính do sự nỗ lực tu tập của tự thân, mỗi người có mỗi nghiệp riêng và muốn học đạocầu đạo giải nghiệp cho bản thân thì chính mình phải có chánh tín vào pháp của Phật. Vì vậy, một hành giả tu tập đúng đắncần xác định niềm tin của mình trên cơ sở của cái thấy đúng và biết đúng, không tin tưởng vào bất cứ điều gì khi những điều ấy chưa được thẩm định rõ ràngsuy luận cẩn thậnThực hành theo Giới, Định, Tuệ là việc làm vô cùng cần thiết và chân chính, vì khi chúng ta hiểu đúng, biết đúng và hành trì đúng con đường thì chân hạnh phúc sẽ hiện hữu trong từng bước đi của mỗi người.

Tín căn: là lòng tin mạnh mẽ vững chắcLòng tin này không giống như lòng tin mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí của phần nhiều ngoại đạoĐức Phật dạy: “Niềm tin là mẹ vô lượng của công đức” [1], nhờ lòng tin mà quả Bồ đề dễ dàng thành tựu. Tín gồm ba loại:
– Tin Phật: Tin rằng chư Phật có đầy đủ trí tuệ, với lòng từ bi bao la muốn cứu độ hết thảy chúng sanh thoát khỏi sanh tửluân hồi. Tin Đức Phật Thích Ca thuyết như thật pháp về cõi Tịnh độ, về Đức Phật A Di Đà.
– Tin pháp: Tin pháp môn niệm Phật dễ tu dễ chứng, có công năng thật sự; tin 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà có đầy đủ hiệu lực nhiệm mầu.
– Tin mình: Tin mình có đầy đủ khả năngnghị lực, nếu mình thực hành y theo lời Phật dạynhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì sẽ được vãng sanh.

Bồ đề tâm được xây dựng trên cơ sở của niềm tinbiển Phật pháp mênh mông vô tận và chỉ có thể thâm nhập bằng niềm tin chắc thật. Như ý nghĩa trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật đã dạy: “Lòng tin là nguồn sinh ra đạo, là mẹ sinh ra các công đứclòng tin có công năng nuôi lớn các thiện căn. Tín thì vượt xa các đường ma, tín có công năng chứng đắc Tam-ma-địa, tín có công năng giải thoát bể khổ sinh tử, tín có công năng thành tựu Phật Bồ đề”.

Trong giao tế ngoài xã hộilòng tin đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó tạo nên sự gắn bó thân thiếtliên quan đến các mối quan hệ và củng cố uy tín với cộng đồng xã hội. Trong sinh hoạt gia đình, sự thương yêu và chia sẻ đều bắt đầu từ sự chân thành và lòng tin giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái với nhau. Sự thành thật và lòng tin tưởng giúp ta luôn thành công trong cuộc sống, nó như chất keo gắn kết con người với con người và là chất liệu kết nối yêu thương tạo mối quan hệ lâu dài với nhau.

Niềm tin chân chánh phải bắt nguồn từ sự quán chiếu tìm tòihiểu rõ rồi mới tin thì niềm tin ấy mới là chánh tín. Nếu như người đệ tử Phật tin mà không hiểu thì rất dễ lầm đường lạc lối như Đức Phật đã nói “tin Ta mà không hiểu Ta là phỉ báng Ta”. Trong Tăng Chi Bộ KinhĐức Phật nói “Này các Tỳ kheo, có hai hạng người xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người độc ác với tâm đầy sân hận hay người có lòng tin với tà kiến” [2]. Con người sống tốt và có ý thức, hay suy thoái đạo đức là do niềm tin không chân chính làm xáo trộn bởi sự hiểu biết sai lầm. Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành.

Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài rất thận trọng khi nói đến niềm tin. Trong Kinh Kalama thuộc Tăng Chi Bộ Kinhbản kinh nổi tiếng được trích dẫn nhiều nhất khi nói những niềm tin không hợp lý của người dân Ấn Độ lúc bấy giờ. Đức Phật đã dạy rõ điều này như sau: “Này các người Kalama, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa-môn là thầy mình….” [3].

Chánh tín và an lạc là hai vấn đề có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào chúng ta có niềm tinchân chính thì mới đưa đến sự an lạc hạnh phúc. Vì vậy, khi nói đến vấn đề chánh tínĐức Phật đã dạy cho dân chúng Kalama như sau: “Biết rõ các pháp này là thiện, là không có tội lỗi, các pháp này được những người có trí tán thán, các pháp này nếu chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc và an lạc, thì này Kalama, hãy chứng đạt và an trú” [4]. Với trí tuệ của mình, Đức Phật dạy chúng đệ tửnên thận trọng, chớ vội tin tưởng điều gì mà phải biết dùng trí tuệ để nhận biết các quan điểmtư tưởng chủ yếu là “pháp”. Sau khi suy xétchiêm nghiệm và tư duy mới đi đến niềm tin vững chắc, đó là lộ trình chánh tín của người con Phật. Từ đó cho thấy, chánh tín kiên cố là phương pháp vô cùng quan trọng trong quá trình duy trì sự an lạc cho chúng taVì vậy, khi tìm thấy pháp tu đúng đắn hành giả cần an trú nơi pháp đó để tu tập cho chính mình, giữ vững lòng tin, không nên tìm kiếm những điều mới lạ từ bên ngoài mà chưa xác thực rõ ràngChánh tín kiên cố được tìm thấybằng trí tuệ sẽ giúp chúng ta luôn tự tin vững chãi, đem lại hạnh phúc an lạc cho mình và người trong cả hiện tại và tương lai.

CHÍ NGUYỆN VỮNG CHẮC
Khi hành giả đã có niềm tin bất động vào pháp tu của mình thì điều cần thiết tiếp theo là phải lập chínguyện vững chắc. Muốn vào cửa đạo cần dùng trí tuệ thanh tịnh, thế nhưng để chứng đắc được đạo lớn và hành được chánh đạo phải có hạnh đức viên dungthệ nguyện vững chãi.

Phạn ngữ “Prani (Praniddhana)” có nghĩa là “Thệ nguyện”. Nguyện là chí nguyện, ước ao, mong muốn thực hiện những điều chân chánh. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho hành giả mau chóng đạt mục đích. Do đó, hành giả cần lập nguyện cho vững bền, đối với hành giả chuyên tu Tịnh độ thì ngày đêm luôn kiên tâm trì chí niệm Phật và thường phát nguyện theo 48 lời nguyện của Đức PhậtA Di Đà. Luận Đại trí độ có nói: “Nếu làm phước mà chẳng có phát nguyện thì chẳng có mục tiêu. Lập nguyện là để dẫn đường; có như vậy mới thành tựu được mục tiêuVí như người thợ vàng, trước khi nấu vàng, phải lập ý nên làm loại nữ trang gì, để theo đó mà thực hiện vậy. Bồ tát cũng vậy, do phát đại nguyện tịnh các thế giới Phật, nên khi được thành đạoBồ tát cũng sẽ do nơinguyện lực mà thụ được thắng quả. Lại nữa, việc trang nghiêm các thế giới Phật là việc lớn, nên cần phải có nguyện lực lớn. Ví như trâu mạnh có đủ sức kéo luôn cả cỗ xe, nhưng cần phải biết chế ngự nó mới mong đưa xe đến nơi chốn được. Cũng như vậy, nguyện lực mạnh có thể kéo luôn cả nghiệp báo, dẫn sinh vào nơi chốn đã nguyện vậy. Cho nên trong kinh ví phước đức như trâu kéo, nguyện lực như người đánh xe vậy” [5].

Đại sư Ngẫu Ích chỉ dạy: “Được sanh hay không, hoàn toàn là do tín nguyện có hay không, phẩm vị cao thấp hoàn toàn là do trì danh nhiều hay ít. Nhưng phẩm vị cao thấp của hành giả ở nước Cực lạc không là vấn đề ở đây, vấn đề chính là được sanh hay không? Ngài lại dạy, hành trì nhiều ít không là vấn đềvấn đề chính là có tín nguyện hay không mà thôi. Tín, hạnh, nguyện là ba cửa tư lương sanh về Tịnh độtư lương không đủ thì nhất định không được vãng sanh. Cho nên trong pháp Tịnh độ phát nguyện chiếm một vị trí rất quan trọng” [6].

Trong cuộc sống, dù chúng ta làm bất cứ việc gì, lập chí nguyện là quan trọng, nếu không có chí nguyện thì ta rất khó để thành tựu được mục tiêu. Nhà văn Nguyễn Bá Học đã nói rất đúng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Người có chí nguyện như thuyền có lái, như ngựa có cương. Từ việc đời cho đến việc đạo muốn thành công đều phải có hoài bão, chí nguyện vững vàng“Việc phát nguyện là bất khả tư nghị. Nguyện là từ trong tâm phát ra, là biểu hiện từ một ý chí phát động, nên năng lực bất khả tư nghị. Người tu hànhcần thiết nhất là phải phát nguyện. Nguyện tức là mục tiêu tự động quyết định để thi hành. Có mục tiêumới có năng lực hạ thủ. Nếu Bồ tát không phát nguyện, thì không thể thành Phật” [7].

Ba đời chư Phật sở dĩ thành tựu được đạo quả là nhờ phát tâm và lập nguyện. Đức Phật A Di Đàphát ra 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyệnBồ tát Phổ Hiền có 10 lời thệ nguyện. Trong Kinh A Di ĐàĐức Phật cũng đã nhiều lần nhắc nhở các đệ tử phải nên phát nguyện sinh về cõi Cực lạc“Này Xá-lợi-phất! Ta thấy việc lợi ích đó, cho nên mới nói lời này. Nếu có chúng sanhđang nghe Ta nói, thì nên phát nguyện sanh về nước Cực lạc” [8]. Đoạn kinh này xác định ý nghĩarất cụ thểĐức Phật dạy chúng sanh nên phát nguyện để được sinh về cõi Cực lạc. Đây không phải là lời cầu nguyện suông không có cơ sở, mà rất cụ thể bằng hành động phải tu tập tự thân.

Tín, hạnh và nguyện là ba tư lương căn bản để hành giả có thể sanh về Tịnh độ, nếu thiếu một trong ba thì nhất định không thể thành tựu. Cho nên, trong pháp Tịnh độ phát nguyện chiếm vị trí rất quan trọng. Đức Phật A Di Đà đã phát 48 lời nguyện làm duyên khởi về nước Cực lạc. Nguyện thứ 19 trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà nói rõ: Nếu người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Cực lạc, khi mạng chung ta đến tiếp dẫn, hễ có nguyện thì nhất định được vãng sanh.

Trong Phật giáo Đại thừa, “Nguyện” là Ba-la-mật thứ bảy trong mười Ba-la-mật mà một vị Bồ tátphải tu tập trong quá trình hướng đến Phật quảPhát nguyện là phát khởi từ trong tâm tưởng một lời hứa kiên cốvững bềnquyết tâm theo đuổi mục đích cho đến lúc thành tựu không vì bất cứ lý do nào mà thối chuyển. Việc phát tâm lập nguyện là điều cần thiết cho cả lĩnh vực tôn giáo và xã hội. Đối với hành giả Phật giáo chân chánh nên nguyện tu tập theo giáo pháp của Phật để tự lợicho bản thân và đem sự an lạc đó giáo hóa cho chúng sanh đều bỏ mê về giác. Trong tâm luôn phát khởi thệ nguyện rằng: “Phát tâm Bồ đềtin sâu lý nhân quảđọc tụng kinh điểnkhuyến hóangười tu hành và cứu độ chúng sanh”. Còn về phương diện xã hội, khi chúng ta quyết định làm một việc gì đó, muốn thành công điều trước tiên phải lập ý chí vững vàng, có kế hoạch và hoài bão rõ ràng, có mục tiêu để hướng đến và chinh phục được ước mơ đó, cho dù có khó khăn trở ngại vẫn không nản lòng và đây chính là chìa khóa dẫn đến thành công trong cuộc sống. Nguyện có một sức mạnh to lớn, giống như một chiếc thuyền kiên cố có thể chở chúng sanh từ biển khổ phiền não đến bờ Niết bàn an vui tịnh lạc. Vì vậy, mỗi người cần dũng mãnh lập nguyện của chính mình, có đích đến trong việc tu tập lẫn cuộc sống.

PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ
Đã có niềm tin kiên cốchí nguyện vững chắc, việc tiếp theo chúng ta cần làm là thực hành theo đúng chí nguyện. Hạnh, tức là thực hành, nếu có tin có nguyện mà không hạ thủ công phu và quyết tâm thì chỉ là niềm tin suông và những ước nguyện hão huyềnVì vậy, tín – hạnh – nguyện chính là ba yếu tố căn bản của pháp Tịnh độ. Nói cách khác, phải đầy đủ tín – hạnh – nguyện thì hành giảmới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ.

Theo Tịnh độ tông, hành là thiết thực xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà cho đến nhứt tâm và cảm ứng đạo giao để được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn. Hành có nhiệm vụ đưa tâm về một đối tượng sau đó nhận biết và thực chứng các pháp. Hành còn có nghĩa là hành trì theo những điều mình đã phát nguyện tinh tấn tu tập thực hành pháp, giữ tâm không thối chuyển từng cử chỉ hành động phải luôn có trí tuệ sáng soi. Theo ba bộ kinh của Tịnh độKinh A Di Đà  nói: “không thể với chút ít thiện cănphước đức nhân duyên mà được sanh về nước kia”Chúng sanh phải luôn cố gắng vun bồi thiện nghiệp sâu dày, tăng trưởng phước đức để làm hành trang vãng sanh Tịnh độKinh Quán Vô Lượng Thọ nói có ba phẩm, như: hiếu kính cha mẹbố thítrì giớiđọc tụng kinh điển Đại thừa… Đại bản A Di Đà Kinh cũng nói đến phải bố thí, trì giới… Đối với những thiện căn phước đức này, hành giả nên tùy sức lực của mình mà thực hành để căn lành tăng trưởngphúc đức đầy đủ.

Sở dĩ chúng sanh đau khổ là do lòng tham lamích kỷ, hẹp hòi, khi lòng tham khởi dậy thì bất chấp thủ đoạn để giành giật về cho mình bằng được. Tâm lúc nào cũng bất an, không hài lòng với những gì hiện cóvì vậy luôn mưu mô tính kế để chiếm đoạt của người khác gây nên biết bao oán cừu, thù hận khổ đau. Vì vậy, trong Kinh Di GiáoĐức Phật dạy: “Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không lo sợ chi cả; cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ. Giữ tâm ít ham muốn, ắt được Niết bàn” [9]. Đức Phật cũng dạy: “Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạcBất tri túc giả thân xứ thiên đường diệc bất xứng ý” [10]. Nghĩa là người biết đủ tuy nằm dưới đấtcũng cảm thấy vui, người không biết đủ cho dù ở thiên đường cũng không vừa ý. Do đó, người không biết thiểu dục tri túc thì lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốnbất an lo sợ. Cho nên, Phật dạy tứ nhiếp pháppháp bố thí là đầu tiên giúp hành giả tu tập đoạn trừ tâm tham lam và vun bồi phước đức, phát triển lòng từ bi làm hành trang trên con đường tu tập.

Tứ nhiếp pháp gồm: bố thíái ngữ, lợi hành và đồng sựbố thí, tiếng Phạn là Danna, có nghĩa ban bố, trao tặng mọi sự cần thiết cho kẻ khác. “Bố thí là một niềm hân hoan, một phước báu cho cả người dâng tặng lẫn người thọ lãnhBố thí có công năng tiêu trừ những tư tưởng ích kỷxấu xa và phát triển tư tưởng duy tha, trong sạch” [11]. Trong Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói, “rộng lòng ban ân, bố thíthương yêu cứu giúp mọi người, tin Phật làm lành, không tranh chấp thiệt hơn” [12].

Chánh tín và an lạc là hai vấn đề có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào chúng tacó niềm tin chân chính thì mới đưa đến sự an lạc hạnh phúc. Vì vậy khi nói đến vấn đềchánh tínĐức Phật đã dạy cho dân chúng Kalama như sau: “Biết rõ các pháp này là thiện, là không có tội lỗi, các pháp này được những người có trí tán thán, các pháp này nếu chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc và an lạc, thì này Kalama, hãy chứng đạt và an trú”.

Bố thí gồm có 3 loại [13]:
– Tài thí: nghĩa là đem vật chất thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác. Những tài sản ấy bao gồm: tiền bạc, của cải, vợ con… kể cả thân mạng mình.
– Pháp thí: là một loại bố thí phi vật chất. Nghĩa là đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quý báu của Đức Phật để chỉ bày khuyên bảo người khác, hoặc tự thân nghiêm trì giới luật để làm khuôn mẫu cho người khác. Vật thí của loại bố thí này được tạo bởi trí tuệ và thái độ sống của người thí. Do đó, pháp thí có giá trị rất lớn so với tài thíTài thí chỉ giúp người nghèo khổ đỡ túng thiếu vật chất. Nhưng pháp thí có công năng giúp đỡ mọi người thoát khỏi nỗi khổ tinh thần.
– Vô úy thí: mang lại sự an ổn, không lo sợ cho người khác.

Ba đời chư Phật sở dĩ thành tựu đạo nghiệp không vị nào là không hành pháp bố thí. Như Bồ tát Quán Thế Âm, biết bao chúng sanh nhờ Ngài bố thí mà thoát khỏi nạn nguy. Trong những cơn hỏa tai, thủy ách, chiến tranh, người ta đều nhờ Ngài mà được yên ổn! Cho đến có kẻ dữ muốn hại, ác thú đón đường, bùa chú ếm thư, người ta cũng nhờ Ngài mà dứt sự lo sợ. Vì thế, trong cõi Ta bànày, ai nấy đều xưng ngài Quán Thế Âm là Thí vô úy giả.

Kinh Bổn Sanh ghi chép rất nhiều câu chuyện tiền thân của Đức Thế Tôn, nhờ hành pháp bố thícho đời mà mau lên ngôi chánh giác. Ở vô lượng kiếp trước, dù hóa sanh trong hạng nào cũng đều nêu gương đại từ đại bi rốt ráo. Đã từng làm các loài cầm thúxả thân mạng mình để cứu đồng loạilúc nguy nan. Trong những kiếp làm người, không tiếc thân mạng để cứu bầy cọp đói; đem thân mình ra nạp để thế mạng cho chim câu đang lâm nạn; từ trên đền cao xả thân nhảy xuống để hóa làm cá linh cứu bệnh cho nhân dân… Biết bao tích lành của Ngài! Sự bố thí của Ngài lên đến cực điểm. Ở đời, có ai đem vợ con mà cho người ta không? Chỉ có Ngài mà thôi. Nhờ tấm lòng bố thívô cùng tậnthúc đẩy Ngài mau lên quả vị Phật. Còn chúng ta, hàng phàm phu cứ bo bo giữ lấy cái ta, vì vậy còn mãi làm chúng sanh trầm luân trong sanh tử. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố thíhành giả được phước vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ, nhưng hoà vào biển cả thì cũng được biến khắp cả biển, rộng rãi bao laVì vậy, Phật dạy: Bồ tát khi bố thí phải “tam luân không tịch”, nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, kẻ chịu ơn và vật bố thí, ấy mới đúng thật là đang hành pháp bố thí chân chánh [14].

KẾT LUẬN
Trên thực tế, có một số ý kiến cho rằng, cứ tin tưởng vào tha lực của Đức Phật A Di Đà và cầu nguyện niệm danh hiệu của Ngài sẽ được Ngài rước về Cực lạcQuan niệm này đã biến Đức PhậtA Di Đà thành một đấng có quyền thưởng phạt. Trì niệm, theo triết lý Tịnh độ không phải xưng tên Ngài một cách suông mong Ngài tiếp độ, mà là nhiếp niệm, nhiếp tâm vào thực hành Giới, Định, Tuệ để hàng phục các vọng tưởngvọng niệm, loại trừ tham, sân, si của mình cho đến mức nhất tâm bất loạnđạt được Giác ngộ giải thoát khổ đau hoàn toàn. Điều này có nghĩa vãng sanh là công việc tự lực hoàn toàn, môi trường và cảnh giới của Phật A Di Đà như lực hấp dẫntác động chúng ta tinh tiến đi tới. Chư Phật chỉ là những người thầy chỉ đường cho chúng sanh, còn đi hay không là việc của chúng ta, phải đi bằng chính đôi chân tâm thức của mình, đi về Tịnh độ tức là đi về với tâm lý vô thamvô sânvô si để vượt ra khỏi nhà lửa tam giới đạt an lạc thảnh thơi ngay trong cuộc sống này. Ví như một cái cây, khi sống luôn nghiêng về hướng mặt trời thì chắc chắn khi chết cũng ngả theo hướng ánh sáng mặt trờicon người chúng ta cũng vậy, thường nhật luôn giữ được tâm thái chánh niệm, an vui, gieo tạo phước đức thiện căn, thân cận thầy lành thiện hữu tri thức, khi mãn kiếp nhất định sẽ theo những thiện nghiệp đã gieo tạo mà thọ sanh.

Chú thích:
* SC. Thích Nữ Tịnh Trí, Học viên Cao học khóa V tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
[1] Thích Thiện Hoa (2012), Phật học phổ thông I, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.466.
[2] Kinh Tăng Chi Bộ I, Thích Minh Châu dịch (1996), Chương II Hai Pháp III. Phẩm Người Ngu, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, tr.114.
[3] Sđd, tr.338.
[4] Sđd, tr.338.
[5] Luận Đại Trí Độ tập I, quyển 7, Phật thế giới nguyệnThích Nữ Diệu Không, tr.247.
[6] Thích Đổng Minh, Tịnh độ tông khái luận, Thích Quảng Hạnh dịch (2013), Nxb. Văn hóa Nghệ thuật, tr.183.
[7] Sđd, tr.505.
[8] Thích Chơn Thiện (2010), Tư tưởng kinh A-di-đà, Nxb. Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, tr.27.
[9] Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải (2010), Di giáo kinh, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, tr.40.
[10] Sđd, tr.41.
[11] Thích Quang Nhuận (2004), Phật học khái lược II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.70.
[12] Kinh Vô Lượng Thọ, Thích Tuệ Đăng dịch (2006), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.83.
[13] Thích Quang Nhuận (2004), Phật học khái lược II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.72.
[14] Thích Thiện Hoa (2012), Phật học phổ thông III, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.475.

Tài liệu tham khảo
1. Kinh Tăng Chi Bộ I, Thích Minh Châu dịch (1996), VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh.
2. Kinh Vô Lượng Thọ, Thích Tuệ Đăng dịch (2006),Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
3. Luận Đại Trí Độ tập I, quyển 7, Phật thế giới nguyệnThích Nữ Diệu Không.
4. Thích Thiện Hoa (2012), Phật học phổ thông, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
5. Thích Đổng Minh (Thích Quảng Hạnh dịch – 2013), Tịnh độ tông khái luận, Nxb. Văn hóa Nghệ thuật.
6. Thích Chơn Thiện (2010), Tư tưởng kinh A-di-đà, Nxb. Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
7. Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải (2010), Di giáo kinh, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội.
8. Thích Quang Nhuận (2004), Phật học khái lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 415)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46277)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21092)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23478)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18959)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15449)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46734)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15345)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42702)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13134)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33318)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51347)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6646)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13151)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29432)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34459)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23669)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30451)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30122)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32769)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10603)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58780)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14238)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11415)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31057)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25362)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22832)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33231)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17718)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42251)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45805)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32144)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11349)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27424)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17822)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12297)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29229)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28321)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22808)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17376)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11916)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34776)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26385)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29180)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13228)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 29009)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18817)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46499)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13873)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30042)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22892)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12567)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37345)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 37021)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant