Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Bích Nham Lục Giải Đề

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12415)
1. Bích Nham Lục Giải Đề

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

BÍCH NHAM LỤC GIẢI ĐỀ

Bích Nham Lục do Thiền sư Viên Ngộ đời Tống trước tác, nguồn gốc của nó xuất phát từ Thiền sư Tuyết Đậu. Tuyết Đậu chọn lựa trong Nội điển, Ngoại điển và Văn sử một trăm tắc công án, dùng âm vận tụng ra chỗ sâu kín của Thiền, làm tư lương cho những người tham học trong các tòng lâm, gọi là Tuyết Đậu Tụng Cổ. Thiền sư biện tài vô ngại, là nhà văn hào một thời, đủ chánh nhãn siêu cách, thật là một Cao tăng xưa nay ít thấy. Những lời tụng này, nhiều khách giang hồ truyền nhau, khen là một tuyệt tác trong thiên hạ. Song lời gọn ý sâu, chẳng khác núi bạc, vách sắt. Thiền khách khó nhọc nghiên tầm phân tích, như con muỗi cắn trâu sắt, không có chỗ cắm mỏ. Sau khi Tuyết Đậu tịch hơn sáu mươi năm, khoảng niên hiệu Chánh Hòa (1111-1114) đời Tống Huy Tông, Thiền sư Viên Ngộ lúc ở viện Linh Tuyền, Giáp Sơn, Lễ Châu, vì học giả đem một trăm tắc Tụng cổ này mỗi mỗi chú thích. Ở đầu mỗi tắc là Thùy thị (lời dẫn), kế Công án (bản tắc), sau câu Tụng cổ mỗi chỗ phụ Trước ngữ, tiếp Bình xướng. Sư chọn lọc chỗ uyên nguyên, chia chẻ thâm lý, phát huy huyền vi, tuyên bố phát dương tông chỉ truyền riêng, chỉ thẳng rất khéo, rất tột.

Về sau, khoảng niên hiệu Kiến Viêm (1127-1130) đời Tống Cao Tông, đồ đệ của Sư là Phổ Chiếu… biên chép lại để tên là Bích Nham Lục. Bởi vì tấm bảng trên ngạch trượng thất tại viện Linh Tuyền đề là Bích Nham. Thiền sư Viên Ngộ biện tài siêu xuất, văn chương tuyệt vời nên tên Bích Nham đã làm dư luận chấn động một thời. Song sau khi Thiền sư tịch, đệ tử chỉ nhớ tụng ngôn cú trong sách làm nhu yếu biện luận tri giải, phản lại bản nghĩa “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”. Thiền sư Đại Huệ Tông Cảođệ tử nối pháp Viên Ngộ, thấy tệ ấy buồn than, bèn mang bản gỗ chất trước sân chùa cho một mũi lửa thiêu sạch, dứt lưu truyền ngang đây. Ngót hai trăm năm sau, trong tòng lâm ít ai thấy được quyển sách này.

Khoảng niên hiệu Đại Đức (1297-1307) vua Thành Tông nhà Nguyên, ở Ngung Trung, cư sĩ Trương Minh Viễn (tên Vĩ) góp nhặt các bản còn cất giữ mọi nơi, tham giảo bổ túc qua lại cho khắc bản, phụ bản có cư sĩ Vạn Lý, Hưu Hưu, Tam giáo Lão nhân, mỗi người viết tựa, ở sau Phương Hồi Tịnh Nhật, Hy Lăng mỗi người viết lời bạt. Quyển sách này lại được ra mắt độc giả, đáng gọi là quyển sách bậc nhất trong tông môn. Thiền khách khắp nơi quí trọng, thích đọc, lưu truyền sâu rộng cho đến ngày nay. 

Bích Nham Lục nguyên tác của Thiền sư Tuyết Đậu, cháu đời thứ tư trong tông Vân Môn, đệ tử truyền pháp của Thiền sư Trí Môn. Sư tục danh là Lý Trùng Hiển, tự là Ẩn Chi, sanh năm thứ năm niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (978) nhà Tống, tại Toại Châu. Khoảng niên hiệu Hàm Bình (998-1003), cha mẹ mất hết, Sư vào viện Phổ An xuất gia với hóa chủ Nhân Săn. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư tham học khắp các kinh luận. Kế xả giáo môn, Sư đi tham vấn Thiền sư Thông ở Thạch Môn Nhượng Dương, ở lại ba năm mà cơ duyên chẳng hợp. Sư đến tham vấn Thiền sư Tộ ở Trí Môn Tùy Châu, liền được thừa kế pháp ở đây. Sư sang đạo tràng của Thiền sư Lâm ở Lô Châu, lại đến chùa Cảnh Đức Trì Châu nhận chức Thủ tọa. Sau Sư dạo Hàng Châu, trụ tại chùa Thúy Phong ở Động Đình Tô Châu, rồi dời sang Minh Châu ở chùa Tư Thánh núi Tuyết Đậu. Núi Tuyết Đậuđạo tràng của Thiền sư Trí Giác, Sư ở đây ba mươi mốt năm, học giả khắp nơi đua nhau nhóm họp dưới tòa. Thiên Y Nghĩa Hoài, Xưng Tâm Tỉnh Tông… hơn bốn mươi người, hàng long tượng xuất hiện, quả là thời tông Vân Môn trung hưng vậy. Thị trung Cổ Công tâu về triều, vua ban hiệu Sư là Minh Giác Đại Sư. Niên hiệu Hoàng Hựu năm thứ tư (1052) ngày mùng mười tháng sáu, Sư thị tịch thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi tuổi hạ. Những sách do Sư trước tác có: Bách Tắc Tụng Cổ, Bộc Tuyền Tập, Tổ Anh Tập, Khai Đường Lục, Thập Di… lưu hành ở đời.

Tác giả Bích Nham LụcThiền sư Viên NgộGiáp Sơn, cháu đời thứ mười tông Lâm Tế, tên Khắc Cần, tự Vô Trước, con nhà họ Lạc ở huyện Sùng Ninh, Bành Châu. Gia thế chuyên nghiệp Nho, thuở nhỏ Sư nhớ giỏi, một ngày học thuộc cả ngàn lời. Sư dạo chùa Diệu Tịch thấy sách Phật có cảm khái, liền xin xuất gia. Sư theo Pháp sư Văn Chiếu nghe giảng, đến Tọa chủ Mẫn Hành học kinh Lăng Nghiêm. Sang tham thiền, đến Thiền sư Hạo ở Ngọc Tuyền, Thiền sư Tín ở Kim Loan, Thiền sư Hiệt ở Đại Qui, Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long, Thiền sư Độ ở Đông Lâm, các nơi đều cho là pháp khí. Thiền sư Hối Đường ở Hoàng Long đặc biệt khen “ngày sau phái Lâm Tế sẽ y nơi ông mà hưng thạnh”.

Rốt sau, Sư đến Kỳ Châu tham vấn Thiền sư Pháp Diễn ở núi Ngũ Tổ, liền được kế thừa dòng pháp ở đây. Niên hiệu Chánh Hòa năm đầu (1111), Sư nhận lời thỉnh của Trương Vô Tận đến trụ trì viện Lễ Tuyền tại Giáp Sơn, bình xướng Bách Tắc Tụng Cổ của Tuyết Đậu, phát huy huyền vi, thật ở lúc này. Khoảng niên hiệu Sùng Ninh, Sư dời đến Đạo Lâm phủ An Sa, Khu mật Đặng Công Tử Thường tâu về triều, vua ban tử y và hiệu Phật Quả. Vua Huy Tông triệu Sư trụ trì Kim Long Tương Sơn, học giả tấp nập kéo đến, khiến môn phong chấn thế. Vua lại sắc Sư trụ trì Thiên Ninh Vạn Thọ, niên hiệu Kiến Viêm năm đầu (1127) dời trụ Kim Sơn ở Trấn Giang. Gặp lúc vua Cao Tông đi dạo Dương Châu mời Sư vào cung đối đáp, Vua ban hiệu là Viên Ngộ Thiền Sư. Kế Sư dời đến Vân Cư Giang Tây trụ trì chùa Chiếu Giác. Tháng tám niên hiệu Thiệu Hưng thứ năm (1135), Sư có chút ít bệnh rồi tịch, vua sắc thụyChân Giác. Phần trước tác của Sư có: Bích Nham Lục, Ngữ Lục hai mươi quyển, Viên Ngộ Tâm Yếu hai quyển, Kích Tiết Lục ba quyển. Nối pháp SưĐại Huệ Tông Cảo, Hổ Khưu Thiệu Long… hơn hai mươi vị, gọi là trung hưng tông Lâm Tế.

 

TỰA I

Mạng mạch bậc chí thánh, đại cơ của liệt Tổ, thuốc hay hoán cốt, thuật diệu nuôi thần, chỉ Thiền sư Tuyết Đậu có đủ chánh nhãn siêu tông việt cách, đề cao chánh lệnh, chẳng bày khuôn phép, cầm kiền chùy nấu Phật luyện Tổ, tụng ra cái lỗ mũi hướng thượng của Thiền khách. Núi bạc vách sắt, ai dám dùi mài, con muỗi cắn trâu sắt không có chỗ cắm mỏ. Không gặp thợ tài đâu thấu chỗ huyền vi. Xứ Việt có Phật Quả Lão Nhân, lúc ở Bích Nham, học giả không hiểu thưa hỏi, Lão Nhân thương xót vạch bày chỗ uyên nguyên, chia chẻ thâm lý, nêu lên chỉ thẳng, chẳng lập kiến tri, một trăm tắc công án từ đầu quán xuyến làm một, các bậc Trưởng lão thứ lớp thảy xét qua. Nên biết ngọc bích nước Triệu vốn không tỳ, Tương Như dối gạt vua Tần. Chí đạo thật không lời, Tông sư thương xót cứu tệ. Nếu thấy như thế, mới biết tột tâm lão bà. Hoặc là nệ câu kẹt lời, chưa khỏi diệt dòng họ Phật. Phổ Chiếu hân hạnh hầu Sư dưới gối, được nghe điều chưa nghe, bạn đạo chung họp thành, biên gọn lại, dùng lời vụng về viết tựa sau chót.

Bấy giờ niên hiệu Kiến Viêm năm Mậu Thân, ngày ba mươi cuối xuân, đệ tử tham học Tỳ-kheo Phổ Chiếu kính tựa.
 
 

TỰA II

Từ kinh Tứ Thập Nhị Chương truyền vào Trung Quốc mới biết có Phật. Từ Tổ Đạt-ma đến Lục Tổ truyền y mới có ngôn cú. Nói “Bản lai vô nhất vật” là Nam tông, nói “Thời thời cần phất thức” là Bắc tông. Khi có Thiền tông liền có Tụng cổ lưu hành ở đời. Đồ đệ kia có lối lật bàn, chê Phật quở Tổ, không gì chẳng làm. Trong ấy, có người đạt được hoạt pháp của thi gia nhà ta, song đã nói “Đệ nhất nghĩa đâu dùng ngôn cú”. Tuyết Đậu, Viên Ngộ tâm lão bà tha thiết, Đại Huệ cho một mũi lửa thiêu sạch. Ở Ngung Trung, Trương Vĩ Minh Viễn nhóm lại đống tro tàn, tái bản lưu hành, cũng đáng gọi là tâm lão bà tha thiết ấy vậy.

Niên hiệu Đại Đức thứ bốn (1300) năm Canh Tý, ngày mùng tám tháng tư Quí Sửu, núi Tử Dương Phương Hồi Vạn Lý tựa.
 
 

TỰA III

Bích Nham Lục do Thiền sư Viên Ngộ trước thuật, đệ tử lớn của Sư là Thiền sư Đại Huệ đốt sạch. Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy. Bỏ mình theo vật ắt phải mất mình. Phàm tâm với đạo là một, đạo cùng vạn vật là một, đầy dẫy thái hư, có cái gì mà chẳng phải đạo. Người tầm thường xem đó, hay thấy cái bị thấy, mà chẳng thấy cái chẳng bị thấy. Tìm cầu nơi người, mà người vì nói đó, như Đông Pha dụ mặt trời [Tô Đông Pha nói: Như người bệnh mắt, tìm thầy thuốc trị cho con mắt sáng. Thầy thuốc bảo: Tôi chỉ có thuốc trị bệnh mắt, chớ không có thuốc làm sáng mắt. Con mắt làm sáng được, lại phải bị tối. (Trí Chứng Truyền - trang 341 tập 1)], tìm qua kiếm lại càng xa càng mất. Từ Phu Tử của ta, thể đạo còn muốn không nói, huống là nhà Phật là pháp xuất thế gian, mà có thể nơi văn tự ngôn ngữ tìm cầu được sao? Tuy nhiên cũng không thể bỏ, vì người trí ít, người ngu nhiều, người học rồi ít, người chưa học nhiều. Đại tạng kinh hơn năm ngàn quyển, trọn vì người sau lập bày. Nếu khả dĩ quên lời, ông già Thích-ca lẽ ra phải ngậm miệng, vì sao lại nói thao thao như vậy. Lý của thiên hạ vẫn có trong tầm thường, mà vượt ra hình tướng tầm thường. Tuy dường dễ biết mà thật chưa dễ biết, chẳng nhờ người chỉ dạy thì trọn đời cũng không thể biết. Người xưa nổi danh trong đời, chẳng phải bậc anh của ngàn người, cũng là bậc kiệt của muôn người. Kiếm Thái A là loại kiếm bén nhất trong thiên hạ, lên núi thì giết được cọp, xuống biển thì chém được rồng, người đời đều biết, trọn là như thế. Song cổ nhân có chỗ thiện dụng, nương thành mà chiến, thuận gió mà huơi. Tam quân vì đó mà đại bại, máu tuôn đỏ cả ngàn dặm. Thế đâu chẳng do sở năng của một mình, lại còn nghi gì ư? Từ tôi nghe có quyển sách này, rất mực tìm kiếm. Họ Trương ở Ngung Trung mới khắc bản gỗ lại, đến mời tôi viết tựa, bèn trợ giúp được thành tựu, lại vì đề ở đầu.

Niên hiệu Đại Đức thứ chín (1306) năm Ất Tỵ, ngày lành tháng ba, Ngọc Sầm Hưu Hưu cư sĩ, Liêu Thành Châu Trì, viết tại nhà trọ Quán Kiều sông Tiền Đường.
 
 

TỰA IV

Hỏi: Người làm thành và người tiêu hủy tập Bích Nham ai phải ? Đáp: Đều phải. Từ Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc riêng truyền tâm ấn, chẳng lập văn tự mà có các luận Huyết Mạch, Qui Không… quả thực ai làm đó ư? Cổ nhân nói: “Chẳng tại văn tự, chẳng lìa văn tự” là lời của người thật biết, đã khiến mọi người cuốn rèm (Cuốn rèm: Trường Khánh Huệ Lăng) nghe bản, dựng ngón tay (Câu chi), chạm gót chân… sáng được đại sự, nào có văn tự chi đâu. Từ đưa cành hoa cười chúm chím đến nay, cây phướn trước cửa ngã, về sau mới dính với ngôn cú. Chẳng có văn tự thì không lấy đâu truyền bá, thế là không thể bỏ vậy. Thường bảo sách của Thiền tông gọi là Công án, xướng từ đời Đường mà thạnh ở đời Tống, đến nay vẫn còn. Hai chữ này trong pháp thế gian là thủ trát quan đòi, cái dụng nó có ba: 

a. Xây mặt vào vách thành công, hành cước việc rồi, trái cân bàn thì khó rõ (một tiêu chuẩn cố định), loài dã hồ thì dễ đọa. Hàng cụ nhãn vì đó khám biện một quở một hét, cốt thấy lẽ thật, như lão quan cứ án luận tội, trong ấy hẳn thấy tình thật chẳng sót một mảy.

b. Từ Lãnh Nam mới về, Giang Tây chưa hớp nước, những lối tẻ mất dê dễ khóc, kim chỉ nam trên hải bàn hướng về Nam, vì lòng từ bi tiếp dẫn một gậy, một tát cốt khiến chứng ngộ, như quan Đình Úy chấp pháp, không tội thì tha, có tội thì phạt.

c. Ăn lúa mạ khá nhiều, cọc cột lừa quá chặt, chí học dịch phải chuyên, màu tơ nhuộm dễ buồn. Đại thiện tri thức vì đó phó chúc, theo tâm chết trên bồ đoàn, một động một tham, như quan phủ ra các điều lệnh, khiến người đọc biết luật pháp, niệm ác vừa sanh xoay trở về tịch diệt.

Sách cụ phương, tạo công án, bày cơ cảnh, làm cách lệnh, với các sách thế gian Kim Khoa, Ngọc Điều, Thanh Minh, Đối Việt ban đầu nào có khác. 

Tổ sư sở dĩ lập công án lưu truyền trong tòng lâm là ý dụng như thế. Bởi vì thời mạt pháp về sau, người cầu diệu tâm nơi giấy lau ghẻ, phó chánh pháp nơi miệng luận bàn, điểm hết quỉ thần vẫn không rời bộ sổ. Đứng dựa cửa người mặc gọi anh chàng, kiếm rơi lâu rồi vẫn còn khắc thuyền, thỏ chạy mất rồi mà không rời gốc cây, đầy bụng sắn bìm, hay hỏi ngôn chuyển ngữ, đối với việc lớn sanh tử vẫn không can thiệp. Chuông kêu chảy cạn, sẽ dùng việc gì. Than ôi! Con linh dương mọc sừng đâu có thể dùng hình tướng khắp tìm, người khéo học Liễu Hạ Huệ há bước cũng bước, chạy cũng chạy ư? Biết thế, ắt tâm hai lão nhân đều phải. Viên Ngộ tâm xót con thương cháu quá nhiều nên niêm lại các tụng của Tuyết Đậu. Đại Huệ tâm cứu bị thiêu vớt chết đuối khá nặng, nên thiêu sạch Bích Nham Tập. Đức Thích-ca nói Đại tạng kinh, rốt sau bèn bảo: “chẳng nói một chữ”, há dối ta sao? Tâm của Viên Ngộ là tâm của Phật nói kinh. Tâm Đại Huệ là tâm của Phật đẹp ngôn thuyết. Ở Vũ Lăng Nhan Tử dời chỗ đều như thế, xô đó, đẩy đó cốt vì xe đi mà thôi. Đến nay đã hơn hai trăm năm, ở Ngung Trung, Trương Minh Viễn lại khắc bản lưu truyền sách này, có phải là Tổ giáo hồi xuân chăng? Hay đời có số chăng? Song lưu hành sách này thật quan hệ thâm trọng, nếu thấy nước cho là biển, nhận ngón tay làm mặt trăng, chẳng những ngài Đại Huệ lo đó, mà Viên Ngộ cũng vì họ gỡ niêm mở trói. Người xưa tả chiếu có thơ rằng: “Rõ ràng trên giấy Trương công tử, tận lực to lời gọi chẳng ừ.” Muốn xem sách này, trước phải tham lời này.

Niên hiệu Đại Đức mười lăm (1312) tháng tư năm Giáp Thìn, Tam Giáo Lão nhân ghi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19848)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19547)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33437)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34505)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54534)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37742)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21144)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17905)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63670)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17394)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49673)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16871)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16391)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14495)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22478)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56987)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13853)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29025)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33327)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38398)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31245)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12649)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13822)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12660)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11839)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30664)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29401)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30589)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31208)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37095)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32239)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23666)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14092)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33979)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27728)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28647)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29367)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12392)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29223)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25670)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26037)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22271)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33145)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39590)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22442)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34479)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28370)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35261)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant