Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tào Động Nhật Bản

11 Tháng Tư 201100:00(Xem: 27331)
Thiền Tào Động Nhật Bản

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

blank

Thiền Tào Động của Nhựt Bản Do Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) trước tác Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ tiếng Nhựt sang tiếng Việt bắt đầu ngày 29 tháng 10 năm 2007, nhằm ngày 19 tháng 9 năm Đinh Hợi, Lễ vía Đức Quan Thế Âm tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất lần thứ năm tại đây.

MỤC LỤC

Mục Lục
Lời nói đầu

Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông

Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ

Chương ba: Tông Chỉ, Giáo NghĩaThánh Điển

Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư

Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo

Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn

Chương cuối: Lời Cuối Sách

 

MỤC LỤC CHI TIẾT

I. Lời nói đầu
Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông

II. Tào Động TôngLịch Sử Hình Thành 

II.1 Tên gọi Tào Động Tông .
II.1.1 Phật Giáo Nhật BảnPhật Giáo của Tông Phái
II.1.2 Phật Giáo và Đức Thích Tôn 
II.1.3 Phật Giáo thời kỳ Nara (Nại Lương) và Heian (Bình An
II.1.4 Phật Giáo của thời đại Kamakura (Kiêm Thương) 
II.1.5 Tính Chất Độc Thiện Của Tông Phái .
II.1.6 Đạo Nguyên Thiền Sư Phủ Định Về Tông Phái .
II.1.7 Lập Trường Của Ngài Đạo Nguyên .
II.1.8 Việc Gọi Tên Tông Phái Bắt Đầu Trong Tông Mình .
II.1.9 Ý nghĩa Danh Xưng Của Tông .
II.1.10 Sự Liên Tục Giữa Tào KhêĐộng Sơn .
II.1.11 Động Sơn Tông Và Tào Động Tông .
II.1.12 Phương Cách Thọ Nhận Tông Danh .
II.2 Bổn Tôn – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni .
II.2.1 Bổn Tôn là gì? .
II.2.2 Bổn Tôn Lấy Đức Thích Ca Mâu Ni Làm Đại Hòa Thượng .
II.2.3 Nhiều Cách Giải Thích Về Bổn Tôn .
II.2.4 Với Việc Tọa Thiền Bổn Tôn Là Đức Thích Tôn .
II.2.5 Bổn Tôn Đang Sinh Động .
II.2.6 Bổn Tôn Không Rời Khỏi Thân Nầy .
II.3 Lưỡng Tổ Đại Sư .
II.3.1 Lưỡng Tổ .
II.3.2 Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư .
II.3.3 Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư .
II.3.4 Cuộc Đời Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư .
II.3.5 Cuộc Đời Của Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư .
II.4 Lịch Sử Tào Động Tông .
II.4.1 Ngay Sau Thời Ngài Đạo Nguyên Thiền Sư – Giữa Thời Kỳ Kamakura (Kiêm Thương) .
II.4.2 Lập Trường Của Ngài Oánh Sơn Thiền SưThời Kỳ sau Thời Kamakura .
II.4.3 Minh Phong, Nga Sơn Thiền SưThời Đại Nam Bắc Triều, An Thổ và Đào Sơn .
II.4.4 Phục Hưng Tông HọcVô Hiệu Hóa Tông Đoàn Thời Kỳ Giang Hộ (Edo) .
II.4.5 Giáo Đoàn Hướng Về Thời Cận Đại – Minh Trị (Meiji), Đại Chánh (Taisho), và Thời Đại Chiêu Hòa (Showa) .
Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ

III. Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ .

III.1 Lưỡng Đại Bổn Sơn .
III.1.1 Tào Động Tông Không Có Tổng Bổn Sơn .
III.1.2 Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự .
III.1.3 Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự .
III.1.4 Chùa có các Biệt Viện .
III.2 Thất Đường Già Lam .
III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện .
III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành .
III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam .
III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường .
III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng .
III.3 Bổn Tôn, Phật TượngPháp Cụ .
III.3.1 Già Lam và Bổn Tôn .
III.3.2 Tượng Phật .
III.3.3 Pháp Cụ .
III.4 Tư Cách Của Tăng LữPháp Y .
III.4.1 Tu Hành Và Thời Hiện Đại .
III.4.2 Pháp Giai .
III.4.3 Tăng Giai .
III.4.4 Áo TràngCà Sa .
III.4.5 Cải Cách Y Phục Và Lạc Tử .
III.4.6 Chế Tác Phục Y .
III.5 Nghi Lễ Của Tào Động Tông .
III.5.1 Nghi Lễ Nghĩa Là Gì? .
III.5.2 Kinh Được Tụng Và Những Hoạt Động Căn Bản .
III.5.3 Tụng Kinh Hằng Ngày .
III.5.4 Những Nghi Lễ Thông Thường Của Mỗi Tháng .
III.5.5 Công Việc Thường Kỳ Trong Mỗi Năm .
Chương ba: Tông Chỉ, Giáo NghĩaThánh Điển

IV. Tông Chỉ, Giáo NghĩaThánh Điển.

IV.1 Yếu Điểm Của Tọa Thiền .
IV.1.1 Tào Động Tông Là Tông Tọa Thiền .
IV.1.2 Thiền Và Lịch Sử .
IV.1.3 Truyền Thống Của Tào Động Tông .
IV.1.4 Thiền Có Nghĩa Là Tọa Thiền .
IV.1.5 Chỉ Quán Đả TọaTức Tâm Thị Phật .
IV.1.6 Tọa Thiền Dụng Tâm Ký .
IV.1.7 Tọa Thiền Nghĩa Là Gì? .
IV.1.8 Cách Dụng Tâm Thứ Nhất .
IV.1.9 Phương Pháp Ngồi ThiềnTính Cách Cụ Thể .
IV.1.10 Khi Buồn Ngủ Thì Phải Làm Sao? .
IV.1.11 Khi Tán Loạn Thì Phái Làm Sao? .
IV.1.12 Cảnh Địa Của Việc Tọa Thiền .
IV.2 Lời Dạy Của “Tu Chứng Nghĩa” .
IV.2.1 Tu Chứng Nghĩa .
IV.2.2 Sự Hình Thành Của “Tu Chứng Nghĩa” .
IV.2.3 Đại Ý .
IV.2.4 Thiền Giới Nhứt Như .
IV.2.5 Tu Chứng Bất Nhị .
IV.2.6 Tu Chứng Nghĩa .
IV.3 Trước Tác Chủ Yếu Của Hai Đại Tổ Sư 
IV.3.1 Với Tấm Lòng Cung Kính Để Xem .
IV.3.2 Trước Tác Của Thiền Sư Đạo Nguyên .
IV.3.3 Trước Tác Của Oánh Sơn Thiền Sư .
IV.4 Giải Thích Về Thánh Điển .
IV.4.1 Những Thánh Điển Được Dùng Đến .
IV.4.2 Đối Với Thánh Điển Được Tâm Đắc .
IV.4.3 Giải Thích Về Kinh Điển .
IV.4.4 Giải Thích Về Ngữ Lục .
Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

V. Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ.

V.1 Ý Nghĩa Của Sự Sinh Hoạt Tín Ngưỡng .
V.1.1 Đàn Tín Đồ Nghĩa Là Gì? .
V.1.2 Vì Sao Sự Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Lại Quan Trọng? .
V.1.3 Nhiều Đời Sống Tín Ngưỡng Khác Nhau .
V.2 Tụng Kinh Sáng, Tối .
V.2.1 Mua Bàn Thờ Phật Cho Đúng Cách .
V.2.2 Cách Bài Trí Bàn Phật .
V.2.3 Cách Tụng Kinh .
V.3 Lễ Xuất Gia Của Người Tại Gia .
V.3.1 Tuần Tự Thứ Lớp Của Việc Xuất Gia .
V.3.2 Sự Tuần Tự Lễ Xuất Gia Của Người Tại Gia .
V.4 Thọ Giới Hội .
V.5 Nghi Thức Kết Hôn .
V.5.1 Nghi Lễ Kết Hôn Trang Trọng Trước Đức Phật .
V.5.2 Nghi Thức Theo Thứ Tự .
V.6 Đám Tang .
V.6.1 Tại Sao Làm Lễ Đám Tang? .
V.6.2 Đám Ma Theo Tào Động Tông .
V.7 Sự Hiểu Biết Về Giới Danh .
V.7.1 Giới Danh, Pháp DanhPháp Hiệu .
V.7.2 Chuẩn Mực Của Giới Danh .
V.7.3 Sự Cấu Tạo Của Giới Danh Và Chủng Loại .
V.8 Những Ngôi Mộ Bình Thường .
V.8.1 Nguyên Hình Của Ngôi Mộ Là Một Cái Tháp .
V.8.2 Những Loại Mộ .
V.8.3 Đi Viếng Mộ .
V.9 Tụng Kinh Cầu Nguyện Cúng Dường .
V.9.1 Lý DoÝ Nghĩa Của Việc Tụng Kinh .
V.9.2 Phương Cách Cũng Như Chủng Loại Cầu Nguyện .
V.10 Tọa Thiền Hội .
V.10.1 Căn Bản Của Sự Sinh Hoạt Tín Ngưỡng .
V.10.2 Hướng Dẫn Về Những Hội Tọa Thiền .
V.10.3 Công Việc Của Tọa Thiền Hội .
V.11 Những Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Khác .
V.11.1 Lễ Định Kỳ Và Những Nghi Lễ Khác .
V.11.2 Những Lễ Nghi Lâm Thời Chủ Yếu Của Các Tự Viện .
V.11.3 Thông Qua Việc Từ Thiện (Xã Hội Phước Chỉ) .
Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư

VI. Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư.

VI.1 Tổ Tích Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư .
VI.1.1 Nơi Xuất Sanh .
VI.1.2 Trải Qua Thời Kỳ Ấu Niên .
VI.1.3 Phát Tâm Tại Thần Hộ Tự - Jingooji .
VI.1.4 Những Chùa Đã Tu Hành Tại Nhựt Bản .
VI.1.5 Tu Hành Tại Những Chùa Ở Trung Quốc .
VI.1.6 Địa Điểm Ngày Trở Về .
VI.1.7 Sau Khi Về Nước Ở Tạm Các Chùa .
VI.1.8 Các Nơi Liên Hệ Về Linh Cốt Của Thiền Sư Đạo Nguyên .
VI.2 Tổ Tích Của Oánh Sơn Thiền Sư .
VI.2.1 Nơi Sinh Ra .
VI.2.2 Tu Hành Tại Các Chùa .
VI.2.3 Khai Sơn Các Chùa .
VI.2.4 Địa Điểm Nhập Diệt .
VI.2.5 Những Địa Phương Thờ Linh Cốt Của Thiền Sư Oánh Sơn .
Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo

VII. Tư Liệu Tham Khảo.

VII.1 Những Tư Liệu Tham Khảo Chủ Yếu .
VII.2 Những Tư Liệu Sách Tham Khảo Khác .
VII.3 Tạp Chí, Báo Viết Về Ký Sự .
VII.4 Kinh Tụng – CD Gởi Kèm Gồm: .
VII.5 Kinh Văn Tụng Niệm .
VII.5.1 Khai Kinh Kệ .
VII.5.2 Sám Hối Văn .
VII.5.3 Tam Quy Lễ Văn .
VII.5.4 Tam Tôn Lễ Văn .
VII.5.5 Bát Nhã Tâm Kinh .
VII.5.6 Bổn Tôn Thượng Cúng Hồi Hướng Văn .
VII.5.7 Tu Chứng Nghĩa – Hành Trì Báo Ân .
VII.5.8 Tiên vong Hồi Hướng Văn .
VII.5.9 Phổ Hồi Hướng 
VII.5.10 Tứ Hoằng Thệ Nguyện Môn .
Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn

VIII. Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn.

Chương cuối: Lời Cuối Sách

 

I. Lời nói đầu 

Nhật Bản được xem là một quốc gia Phật Giáo, bởi vì gần 1300 năm kể từ khi Phật Giáo du nhập từ Trung Hoa và Bán Đảo Triều Tiên, Phật Giáo vẫn duy trì truyền thống tín ngưỡng và tạo được niềm tin vững chắc của người Nhật, mà không có gì thay đổi. Hơn nữa, Phật Giáo ảnh hưởng sâu đậm vào đời sống của người Nhật qua các phương diện như chính trị, kinh tế, giáo dục, nghệ thuật, tư tưởng, văn học, phong tục tập quán, nơi ăn, chốn ở v.v...dẫu có khi dung hòa, có khi xung đột, có khi bị áp chế, cản ngăn, có khi được ủng hộ trở thành vai trò hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh.

Ở Nhật hiện tại có đến 75.000 tự viện Phật Giáo, gần 100.000 tăng sĩ và có 70.000.000 tín đồ thuần thành, có thể nói là gần một ức người. Hầu hết các ngôi chùa Nhật đều có lịch sử ngàn năm tồn tại. Không những có không ít các bậc cao Tăng tôn kính mà số lượng Phật Tử thuần thành vô cùng đông đảo. Đã có nhiều nhà chính trị, thương gia, nghệ nhân, văn sĩ, học giả v.v…tin Phật và quy y Tam Bảo; đặc biệt ngày nay Phật Giáo Nhật Bản còn truyền sang Âu Châu, Mỹ Châu và nhiều nước khác, đó là điều mà khoảng 10 năm trước, khó có ai tưởng tượng được.

Mặt khác, hầu hết người Nhật đều tự cho là tín đồ Phật Giáo, tuy nhiên cũng có người nhận xét đến các chùa ở Kinh Đô và Nara chỉ thấy toàn khách tham quan, còn tăng sĩ chỉ lo cúng đám để nuôi thân, không có sinh hoạt Tôn Giáo. Tín đồ đến chùa chỉ vì đi thăm mộ thân nhân trong những ngày lễ Thanh Minh (Ohigan), Vu Lan. Ở Nhật, ngày đầu năm, người Nhật đến Thần Xã; khi kết hôn, họ chọn nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Phải chăng đây là tinh thần dung hòa của Phật Giáo hay chỉ là lòng tin riêng của Tín Đồ Phật Giáo; phải chăng niềm tin Tôn Giáo vốn tồn tại trong tinh thần tự giác của mỗi cá nhân Tín Đồ.

Thật ra, đối với thế giới, Nhật Bản là một quốc gia Phật Giáo, vì đa số người Nhật là tín đồ của Phật Giáo, nhưng với người Nhật không hẳn như vậy. Có nhiều lý do, nhưng phải nói rằng lý do chính là sự nổ lực tăng sĩ có đó, nhưng chưa đầy đủ và lý do khác là tín đồ Phật Giáo cũng kém phần tha thiết quan tâm, hẳn nhiên làm cho người ta không thấy Phật Giáoảnh hưởng gì cả. Thật sự, không đơn thuần cho Phật Giáo đối với các vấn đề hiện tại khi mà xã hội ngày càng phức tạp, thế giới ngày càng nhiều vọng tưởngcon người dường như đang bị mê hoặc, đến nỗi cảm thấy bất an, hoài nghi, dao động, thậm chí không biết mình là ai và không biết phải làm sao đây trước văn hóavăn minh do con người tạo ra. Đó chính là tình trạng đau thuơng của thế giới, đương nhiên Nhật Bản không ra ngoài trạng huống ấy.

Thế kỷ 21 được gọi là thế kỷ Tôn Giáo, thời đại Tâm Linh. Phật Giáo tự dưng được nhiều người quan tâm đến. Nhiều hiện tượng cho thấy có sự lưu ý của người Nhật đối với Phật Giáo như kinh sách Phật Giáo được bày bán nhiều hơn ở hiệu sách, nhiều Chùa thành lập ban nghiên cứu để giảng diễn giáo lý Phật Đà và nhiều phái mới ra đời.... Thế nhưng Phật Giáo Nhật Bản vốn có nhiều Tông Phái khác nhau, mỗi Tông Pháitính chất Tôn Giáo riêng biệt, mà điều nầy được minh chứng qua hình ảnh tăng sĩ, không vị nào không trực thuộc chùa hay tông phái riêng mình, thậm chí tín đồ cũng thế. Thế nên dù thích hay không thích vấn đề lấy gia đình làm đơn vị, dù hiểu hay không hiểu cũng phải trông chờ nơi tông phái của mình

Bản thân tôi (tác giả) không thích về vấn đề phân chia Tông Phái, thích không thuộc Tông Phái nào cả. Nói khác hơn, lập trường của tôi có thể khác với những người học Phật khác, rất tự do khi lưu tâm đến vấn đề Phật Giáo. Thật tế, nhiều người chủ trương như vậy, nhưng không thể xác định khuynh hướng thuộc Tông Phái nào, rốt cuộc chính họ cũng không rõ và bị rơi vào lập trường Tông Phái khác một cách dễ dàng, lúc nào chẳng hay. Vả lại, Phật Giáo Nhật Bản chia nhiều Tông Phái biết đâu lại là vấn đề thông thoáng, bởi vì có nhiều góc độ và nhiều cánh cửa để mở khi bước vào ngôi nhà Phật Giáo.

Lại một lần nữa nói rằng Phật Giáo Nhật BảnPhật Giáo của các Tông Phái, nhưng thật không hay chút nào khi tăng sĩ và tín đồ thuộc các Tông Phái của Phật Giáo chẳng lưu tâm, cũng chẳng biết mình thuộc Tông Phái nào. Thật ra, trước thời Meiji (Minh Trị), Phật Giáo Nhật Bản theo lập trường truyền thốngnghiên cứu học thuật theo lối Âu Châu, biết Đại Thừa chẳng phải do Đức Phật nói, nhưng có lẽ bắt đầu từ đó, ấn tượng chia rẽ xâm nhập vào Phật Giáo khiến Phật Giáo bị phân chia tạo thành các Tông Phái. Một khi chư Tăng đánh mất tự tin, thậm chí còn hàm hồ đả phá Tông Phái mình, sao lại trách đàn natín đồ ngày càng thiếu hiểu biết. Thật là phi lý!

Tất cả những buổi diễn giảng giáo lý Phật Đà của các học giả và sách vở viết về Phật Giáo bày bán ở hiệu sách, thật tế chỉ giới thiệu Phật Pháp căn bản mà thôi, thật ra chẳng đủ. Cần phải có những buổi giảng của Chư Tăng như là giáo hóa, trao đổi thể nghiệm mang tính đặc thù riêng của từng cá thể, gần gũi thân cận. Mặt khác cũng cần có phần nghi lễ tâm linh, thần bí siêu nhiên, huyền bí khác v.v... mà những phương diện đó không ngoài phương tiện truyền đạt tâm linh

Tác phẩm nầy chỉ bàn về những gì thuộc về phái “Tào Động Tông” của Phật Giáo Nhật Bản như là tổng hợp quan điểm để hướng dẫn mà thôi.

Nếu kể về số lượng Tăng Lữtự viện của riêng Tào Động Tông, có thể nói rằng đây là một đoàn thể Phật Giáo lớn nhất của nước Nhật, phụng thờ đức Bổn Sư Thích Ca là vị giáo chủ Phật Giáo. Các Thiền Tăng đời Kamakura kính ngưỡng những vị Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), Thiền Sư Oánh Sơn là Cao TổThái Tổ. Tông chỉgiáo nghĩa của hai vị Tổ nầy được thiết lập nơi Đại Bổn Sơn tại hai chùa Vĩnh Bình (Eheiji) và chùa Tổng Trì (Sojiji). Dưới tàng cây cổ thụ ấy, có đến 15.000 ngôi chùa, 20.000 Tăng Sĩ và 7.000.000 tín đồ, với lịch sử 700 năm truyền thừa.

Trong khả năng có thể, chúng tôi sẽ cố gắng giải thích rõ ràng tất cả những vấn đề lịch sử, Bổn Tôn, Lưỡng Tổ, lưỡng Đại Bổn Sơn, tông chỉ, giáo nghĩa, tự viện, Tăng Lữ, nghi lễ, thánh điển, sinh hoạt tín ngưỡng và nhiều phương diện khác thuộc pháp nhơn Tôn Giáo và tông chế[1] của Tào Động Tông, để mọi người liễu tri một cách dễ dàng khi muốn nghiên cứu về tông nầy. Hẳn nhiên, trong điều kiện cho phép, tài liệu nầy cũng là cơ sở căn bản lý giải cho đàn na, tín đồ và những người thuộc Tông Phái khác, khi lưu tâm những vấn đề của Tào Động Tông Nhật Bản một cách bao quát hơn, đó cũng chính là điều mà tác giả vô cùng tha thiết vậy.

 Azuma Ryushin (Đông Long Chơn)

[1] Giống như tư cách gemeinnütziger e.V. của Tôn Giáo tại Đức. Nghĩa là Hội nầy có khai báo tại tòa án, có tính cách từ thiện, xã hội của Tôn Giáo đó.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19525)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33408)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34474)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54513)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37716)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17874)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63636)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49652)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16862)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56968)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29006)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33307)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31227)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13903)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14301)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12635)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19197)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11824)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30645)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30566)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31193)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37074)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32221)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12210)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14228)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14081)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33955)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27709)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12442)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28610)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29344)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12382)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29197)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27987)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25643)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22239)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33123)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31796)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39572)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22391)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34444)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 28341)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35241)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31912)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant