Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15252)
Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI TÁM

HUYỀN SA TIẾP VẬT LỢI SINH

 

THÙY: Các phương pháp của tông môn chúng ta là như vậy, phá hai làm ba. Muốn nhập lý tham đàm, cũng cần phải dùi mài mới được. Đối diện với cơ biến mà làm chủ chốt, phá vỡ xiềng xích vàng và các quan kiện huyền áo. Theo lệnh mà hành sự, tảo trừ tất cả các dấu vết. Thử nói xem, lúng túng ở chỗ nào? Thử nêu lên cho những người có mắt trên đỉnh đầu xem.

CỬ: Huyền Sa dạy chúng rằng, “Các bậc lão túc ở khắp nơi đều nói về việc tiếp vật lợi sinh. Hốt nhiên gặp phải ba loại người bệnh phải tiếp họ như thế nào? Gặp phải người mù thì dù mình có dơ trùy dựng phất trần họ cũng chẳng thấy. Gặp phải người điếc thì dù mình có nói về tam muội họ cũng chẳng nghe. Gặp phải người câm thì dù có bảo họ nói họ cũng chẳng nói được. Vậy thì phải tiếp những người ấy như thế nào? Nếu như không tiếp được, hóa ra Phật pháp không linh nghiệm sao?”

Có ông tăng hỏi Vân Môn về vấn đề trên, Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại. Vân Môn nói, “Ông đâu có bị mù.” Rồi Vân Môn lại gọi ông ta bước đến gần, ông tăng bước đến gần. Vân Môn nói, “Ông đâu có bị điếc.” Vân Môn nói, “Ông có hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Vân Môn nói, “Ông đâu có bị câm.” Ông tăng bèn tỉnh ngộ.

BÌNH: Huyền Sa tham Thiền đến mức độ cắt đứt tất cả các tính trần ý tưởng, tự tại thanh thoát, cho nên mới biết nói như vậy. Lúc ấy Thiền thịnh hành và các tự viện ngóng vọng lẫn nhau, Huyền Sa thường dạy chúng rằng, “Các bậc lão túc ở khắp nơi đều nói về việc tiếp vật lợi sinh. Hốt nhiên gặp phải ba loại người bệnh phải tiếp họ như thế nào? Gặp phải người mù thì dù mình có dơ trùy dựng phất trần họ cũng chẳng thấy. Gặp phải người điếc thì dù mình có nói về tam muội họ cũng chẳng nghe. Gặp phải người câm thì dù có boả họ nói họ cũng chẳng nói được. Vậy thì phải tiếp những người ấy như thế nào? Nếu như không tiếp được, hóa ra Phật pháp không linh nghiệm sao?” Người bây giờ mà hiểu theo lối mù điếc hay câm, rôt cuộc sẽ chẳng bao giờ mò mẫm cho ra. Cho nên mới có câu nói, “Đừng có chết trong ngôn ngữ.” Cần phải hiểu ý của Huyền Sa thì mới được.

Huyền Sa thường dùng lời này để tiếp người. Có một ông tăng ở với Huyền Sa rất lâu. Một hôm lúc Huyền Sa thượng đường, ông tăng kia hỏi, “Hòa thượng có cho phép đệ tử lập luận về lời nói về ba loại người bệnh không?” Huyền Sa nói, “Cho.” Ông tăng kia bèn chào từ biệt. Huyền Sa nói, “Sai, sai!” Ông tăng kia có hiểu được ý Huyền Sa không? Sau đó Pháp Nhãn nói, “ Lúc tôi nghe Địa Tạng Hòa Thượng thuật lại lời nói của ông tăng kia, tôi mới hiểu ý của lời nói về ba loại người bệnh.” Nếu như các ông bảo rằng ông tăng kia không hiểu, Pháp Nhãn tại sao lại nói như thế? Nếu như bảo rằng ông tăng kia hiểu, tại sao Huyền Sa lại nói, “ Sai, sai!”

Một hôm Địa Tạng nói, “Tôi nghe hòa thượnglời nói về ba loại người bệnh , có đúng vậy không?” Huyền Sa nói, “Phải”. Địa Tạng nói, “Tôi có nhãn nhĩ tỉ thiệt, hòa thượng làm sao để tiếp đây?” Huyền Sa bèn thôi. Nếu như các ông hiểu được ý của Huyền Sa, há có ở trong ngôn cú sao? Cái hiểu của Đại Tạng quả nhiên là đặc biệt.

Sau đó có ông tăng thuật lại câu chuyện trên cho Vân Môn. Vân Môn hiểu ngay ý của ông ta cho nên nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại, Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã.” Ông tăng lậy xong đứng dậy. Vân Môn lấy gậy thọc vào người ông tăng, ông tăng lui lại.Vân Môn nói, “Ông đâu có bị mù.” Rồi Vân Môn lại gọi ông ta bước đến gần, ông tăng bước đến gần, Vân Môn nói, “Ông đâu có bị điếc.” Vân Môn nói, “Ông có hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Vân Môn nói, “Ông đâu có bị câm.” Ông tăng bèn tỉnh ngộ. Nếu như ông tăng kia là một tay ngon lành thì ngay khi Vân Môn nói, “Ông lễ lậy đi cái đã,” bèn lật đổ ngay giường Thiền, để xem có còn có lắm dây dưa như thế nữa không? Song thử nói xem, chỗ hiểu của Vân Môn và chỗ hiểu của Huyền Sa là giống hay là khác? Chỗ hiểu của hai người ấy chỉ là cùng một loại.

Nhìn xem cách cổ nhân bầy ra ngàn vạn phương tiện. Ý nằm ở đầu lưỡi câu. Biết bao nhiêu là mệt mỏi cũng chỉ nhằm để những người thời nay hiểu được vấn đề này mà thôi. Ngũ Tổ Lão Sư nói, “Một người nói được song không hiểu, một người hiểu song lại nói không được. Nếu như hai người này đến tham kiến, làm sao để phân biện được họ đây?” Nếu như không phân biện được hai người này, các ông thế nào mà cởi gỡ các dính dấp cho thiên hạ được. Nếu như các ông phân biện được thì vừa thấy họ vào đến cổng, các ông đã có thể đi giầy trong bụng họ đến mấy vòng rồi. Nếu như các ông vẫn chưa tự tỉnh ngộ được, các ông đi tìm cái bát gì đây?”

Các ông đừng có hiểu theo lối mù điếc câm.Nếu như các ông so đo kiểu đó, đã có câu nói, “Mắt thấy sắc mà như mù, tai nghe thanh mà như điếc.” Lại có câu nói, “Đầy mắt không thấy sắc, đầy tai không nghe thanh. Văn Thù thường che mắt, Quan Âm luôn bịt tai.” Đến chỗ này rồi các ông phải thấy sắc mà như mù nghe thanh mà như điếc thì mới có thể không mâu thuẫn với ý của Huyền Sa được. Các ông có hiểu được ý của những kẻ mù điếc câm chăng? Nghe Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Đui mù câm điếc,

Tuyệt dứt cơ nghi.

Trên trời dưới trời,

Vui thay buồn thay.

Ly Lâu không biện chính sắc,

Sư Khoáng há hiểu huyền ty?

Sao bằng ngồi không dưới khung cửa,

Lá rụng hoa nở tự có thời.

Lại nói có hiểu hay không?

Trùy sắt không lỗ.

BÌNH: “Đui mù câm điếc, tuyệt dứt cơ nghi.” Tất cả những cái các ông thấy với không thấy, nghe với không nghe, nói với không nói, Tuyết Đậu một lúc quét sạch cả. Đến nỗi các kiến giải so đo theo kiểu đui mù câm điếc trong một lúc dứt bặt chẳng còn sử dụng được nữa. Sự việc hường thượng này có thể gọi là mù thật điếc thật câm thật vô cơ vô nghi.

“Trên trời dưới trời, vui thay buồn thay.” Tuyết Đậu một tay nâng lên một tay đè xuống. Thử nói xem vui cái gì? Buồn cái gì? Vui thay là vì câm là không câm, điếc mà không điếc, buồn thay là vì rõ ràng là không mù mà lại mù, rõ ràng là không điếc mà lại điếc.

“ Ly Lâu không biện chính sắc.” Nếu như không phân biện được xanh vàng trắng đỏ tức là mù. Ly Lâu là người thời Vua Hoàn Đế (ba ngàn năm trước công nguyên), cách xa ngoài một năm bộ vẫn có thể nhìn thấy đầu một sợi lông, có đôi mắt thật là sáng. Hoàng Đế đi chơi ở dòng sông Xích Thủy đánh rơi viên ngọc, sai Ly Lâu tìm mà tìm không được. Sai Khế Hậu tìm cũng tìm không thấy. Cuối cùng sai Tượng Võng tìm mới được. Cho nên mới có câu nói rằng, “Tượng Võng tìm mới được. Cho nên mới có câu nói rằng, “Tượng Võng lúc nào cũng sáng lạn, Ly Lạu hành trạng như sóng cao.” Ở chỗ cao vợi này ngay cả Ly Lâu để mắt nhìn mà cũng không phân biện được chính sắc.

“Sư Khoáng há hiểu huyền ty?” Thời nhà Châu (một ngàn năm trước công nguyên) Tấn Cảnh Công có người tên là Sư Khoáng tự là Tử Dã, khéo phân biện ngũ âm lục luật. Sư Khoáng có thể nghe thấy tiếng kiến đánh nhau phía bên kia ngọn núi. Lúc ấy Tấn và Sở tranh bá. Sư Khoáng chỉ còn biết đánh đờn phát khởi đề cung biết rằng Sở không thể nào thắng được. Tuy rằng Sư Khoáng có khả năng như thế, Tuyết Đậu vẫn nói rằng Sư Khoáng vẫn chưa hiểu huyền ty. Những người không điếc mà điếc, đối với cái âm thanh huyền diệu nơi cao này, thì cho dù là Sư Khoáng đi nữa cũng không hiểu được.

Tuyết Đậu nói, “Tôi không làm Ly Lâu cũng chẳng làm Sư Khoáng, sao bằng ngồi không dưới khung cửa? Lá rơi hoa nở tự có thời.” Nếu như đến cảnh giới này, tuy rằng nghe mà cũng giống như không nghe, tuy rằng thấy mà cũng giống như không thấy, tuy rằng nói mà cũng giống như không nói. Lúc đói thì ăn lúc mệt thì nằm ngủ. Để mặc lá rụng hoa nở. Lúc lá rụng là thu, lúc hoa nở là xuân, mọi cái tự có thời tiết của nó.

Sau khi đã quét sạch cả cho các ông, Tuyết Đậu lại đặt ra một con đường nói rằng, “Có hiểu hay không?” Tuyết Đậu sức kiệt tinh thần mệt mỏi; chỉ nói được rằng “trùy sắt không lỗ.” Câu này các ông phải mai để mắt nhìn thì mới thấy được. Nếu như toan lý luận là các ông lại để lỡ mất nó ngay.

Viên Ngộphất trần lên nói, “Các ông có thấy không?” Rồi lại đạp lên giường Thiền một cái , nói, “Các ông có nghe không?” Rồi lại bước xuống khỏi giường nói, “Các ông có nói được không?”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12479)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9598)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10161)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20472)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11699)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46782)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12139)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11805)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17903)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10193)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17871)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18253)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17086)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11521)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11677)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19825)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7203)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9233)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14904)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18702)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15314)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17351)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29828)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31609)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32867)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30865)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32649)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39401)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40511)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50218)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16110)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25503)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17844)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33381)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39695)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44066)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23125)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44128)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42951)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44448)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39273)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19297)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35723)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24259)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20432)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19035)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18959)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19357)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20349)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15603)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36373)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20321)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31582)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15973)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35971)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34428)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19523)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18980)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22966)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20221)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant