Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Thấy Tánh Thành Phật

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6714)
2. Thấy Tánh Thành Phật

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG BỐN: THUẬT TÁC ÐỘNG THẲNG

II. THẤY TÁNH THÀNH PHẬT 

Lục Tổ chủ trương “Chỉ luận kiến tánh”. Nhà Thiền đề cao, kiến tánhđiều kiện tiên quyết để vào Đạo. Có thể nói, sinh mạng của Thiền là khai ngộ, vì nếu chưa một lần mở mắt trí tuệ thì trong đời tu, có thể gặp nhiều chướng duyên phiền não khó lòng vượt qua nổi. Trong tứ quả Thanh Văn, địa vị thấp nhất là Tu-đà-hoàn, cũng phải kiến đạo mới bước vào dòng Thánh, chỉ còn bảy lần sinh tử rồi không còn trở lui cảnh giới lục đạo. Theo Giáo môn, Bồ tát Sơ địaquả vị đạt chân tâm thường trụ, không bao giờ thối chuyển. Nhà Thiền cũng tương tự, hành giả đã kiến tánh tức đủ chánh nhân thành Phật. Đối với các vị, “ngộ” con đường trực tiếp để đưa các vị đến cảnh giới vút cao của tâm linh, là một cuộc cách mạng từ đời sống nội tâm. Giác ngộ tột cùng là cuộc cách mạng toàn triệt, vị ấy sẽ tự biết tạo sinh kế cho riêng mình, không ai ảnh hưởng khuynh loát được họ. Họ biết sống và làm việc thế nào để tự lợilợi tha. Họ hướng dẫn người khác bằng kinh nghiệm tự thân, nên không theo một khuôn mẫu nào cố định. Người con lúc trưởng thành không còn nhờ vã cha mẹ mà tự lo lấy cuộc sống cho mình, người học trò giỏi cũng như vậy. Họ không rập khuôn theo thầy mà biết đưa con đường thầy vạch ra đến mục tiêu xa hơn. Tự họ sẽ vươn lên và vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Tự họ sẽ mở ra những cuộc phiêu lưu thầm lặng, và đó chính là điều kiện giúp họ luôn sống trong thế giới sáng tạo của riêng mình. Phát minh sáng tạo là sức sống và đặc chất của Thiền. Một Thiền giả có óc sáng tạo không bao giờ đi theo lối mòn của truyền thống. Họ có khả năng tư duy độc lập, và bằng kinh nghiệm kiến chiếu và tiềm năng thiên tư, họ làm phong phú thêm truyền thống ấy.

Hermann Hesse trong Câu chuyện dòng sông đã đưa hình tượng một Tất Đạt Đa có thể biểu trưng cho loại người phiêu lưu sáng tạo này. Chàng đã đến với Cồ Đàm, Bậc giác ngộ, nhưng không dừng lại ở đó để tìm chân lý, vì chàng biết rằng: “Không ai tìm được giải thoát qua những lời chỉ giáo. Lời chỉ giáo của Đấng Giác ngộ bao hàm rất nhiều điều, nhưng có một điều mà giáo lý sáng sủa và giá trị ấy không chứa đựng. Đó là những gì huyền bí mà Đấng Giác ngộ đã chứng nghiệm”. Vì không tìm được giải thoát qua lời dạy, nên Tất Đạt phải lao vào cuộc đời, học tất cả những lạc thú và khổ đau trần thế, trải qua bao nhiêu bài học về sự điên rồ của một cuộc đời vô vị trống rỗng. Cuối cùng, trong tiếng OM của dòng sông, chàng đi vào chiều sâu thăm thẳm của chính tâm hồn mình để trực nhận con người hằng hữu. Từ đó, chàng nhận ra, trong từng tảng đá, từng đóa hoa dại..., nơi nào cũng hiển hiện pháp thân thường trụ. Đây là ý nghĩa của hoa sen mọc từ vũng bùn rồi nở hoa giữa hư không, của Niết-bàn trong trần gian khổ ải.

Nhưng có khi nào chúng ta thắc mắc: “Tánh là gì? Vì sao kiến tánh được xem là mục tiêu tối hậu của đời tu?”. Đức Phật trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu Bồ-tát hạnh hành Bồ-tát đạo, đến khi tự giác - giác tha - giác hạnh viên mãn mới thành Phật. Nay nhà Thiền lại nói: “Kiến tánh thành Phật” thì quả là khó tin khó nghĩ. Chúng ta phải hiểu những vấn đề này như thế nào?  

Nếu có người hỏi: “Nước là gì?”, ta phải trả lời sao cho đúng? Nước là biển hay là sông, là ly nước ta đang cầm hay cái hồ trước mặt? Nếu cho nước một hình tướng của sông của biển, ta đã giới hạn một pháp không thể giới hạn. Mặt khác, dòng sông đang trôi chảy, ta không thể xác định điểm nào là sông, cũng không nên chận đứng dòng sông để tìm bản chất của nước. Tánh cũng như thế, không có hình thức nên không bị sinh diệt, nhưng không thể tìm tánh ở ngoài sự lưu nhuận sinh diệt. 

Một ví dụ khác, một bó hoa có nhiều bông hoa, mỗi bông hoa có hình dạng và màu sắc khác nhau. Nhưng chúng có một điểm chung nhất: Tất cả đều do các duyên tụ hợp. Chúng do duyên hợp nên bình đẳngthể tánh không. Tuy thể tánh không nhưng tùy duyên mà có dạng sắc khác nhau. Tánh là bình đẳng, không phức tạp đa thù, nhưng rời cái đa thù phức tạp thì không thể thấy tánh. Đối với các pháp, chúng ta hay phân tâm trên nó, do ý thức phát sinh nhiều vọng tưởng điên đảo, nên không thấy được Bình đẳng tánh của chúng. Lại nữa, nếu chúng ta quán chiếu các pháp mong thấy được tự thể không, đó là ta đã đặt tâm năng quán trên cảnh sở quán, không thể nhận chân được sự thật. Tâm năng quán và cảnh sở quán đều thuộc về tánh, nhưng nếu phân ranh cái này với cái kia, dùng năng quán sở, thì đã xa tánh muôn trùng! Khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh rỗng rang, không có một niệm khởi mà vẫn biết rõ ràng các pháp, tự nhiên tánh hiện bày, chưa từng thiếu vắng. 

Như vậy, tánh là bình đẳng nhất như, là năng lực sống lặng lẽ mà hằng tri, là suối nguồn linh động trôi chảy trong vạn pháp. Toàn bộ vũ trụ đều không ngoài tánh. Ứùng dụng vào thế gian sinh diệtdiệu dụng, là phần nổi của tánh, cũng như những đợt sóng trên mặt đại dương. Nhưng ngay trong tự thân của biển, dù có những khi biển động, vẫn là sự bình ổn, vẫn là trật tự nhất định, cũng như thể tánh vốn thanh tịnh như như. Chúng sanh lăn lộn trong sáu đường, lúc mang hình thức này, khi có bộ mặt khác, nhưng tựu trung đều là thể tánh thanh tịnh này. 

Thấu triệt rằng, tất cả các pháp dù biến chuyển cách mấy cũng không ra khỏi cội nguồn nguyên thủy bất di dịch, nên Thiền tông chủ trương ngay nơi động mà khai tâm. Chủ động khai tâm là diệu thuật được Đức Phật sử dụng lần đầu nơi hội Linh Sơn. Hoa lưu động khẩu ưng trường tại. Một cành sen đưa lên, cả hội chúng ngơ ngác, chỉ riêng Ngài Ca Diếp mỉm cười ! Nụ cười biểu hiện một thực tại vĩnh hằng - không có gì đã là, không có gì sẽ là, muôn pháp đều thực tại, hiện hữu nơi đương xứ. Tâm Phật và tâm Ngài tương ứng, nên Phật truyền trao tâm ấn. Tâm truyền tâm không phải là có một cái tâm của thầy truyền qua tâm trò, mà có nghĩa là truyền riêng ngoài giáo, thầy dùng diệu thuật ngoài kinh điển chữ nghĩa chỉ thẳng cho trò nhận ra tự tánh hằng tri hằng giác của mình. Khi trò có trình độ tâm linh tương ứng với thầy, cái thấy của thầy và trò không khác, thầy liền ấn chứng. Đây là ý nghĩa của từ “truyền tâm ấn” trong nhà Thiền.

Tóm lại, như tất cả đợt sóng trên biển đều là nước, Thánh hay phàm cũng cùng một mảnh đất tâm mà lưu xuất. Quên bản tâm chạy theo vọng tưởng, mải mê tạo nghiệp là chúng sinh; nhớ lại bản tâm và hằng sống với nó là giải thoát, là Phật Bồ tát. Nói khác đi, mê tự tánhchúng sinh, thấy tánh là Phật. Như vậy, Thánh và Phàm, Phật và chúng sinh cách nhau bao xa? - Chỉ khác nhau ở chỗ nhớ hay quên tự tánh. Do đó, thấy bản tánh hằng hữu là chánh nhân thành Phật; hành giả nỗ lực gột sạch tập khí, bào mòn bản ngã, dứt khoát thành tựu Phật quả không nghi. Câu kệ “Thấy tánh thành Phật” quả thật không có gì quá đáng, chỉ vì hiểu sai ý của người xưa nên có sự tranh luận phản bác mà thôi.

Một điều chúng ta cần hiểu rõ, đó là điểm khác nhau cơ bản trong hai pháp Thiền: Pháp thứ nhất chủ trương chận đứng mọi hoạt động tâm lý, quét sạch mọi vọng niệm, tìm sự thanh tịnh lặng lẽ và an thân lập mạng ở đó. Phương pháp này thích hợp với nhiều người, nhất là trong thời đại công nghiệp hiện đại tiến đến nền kinh tế hậu công nghiệp, trong đó tiềm lực trí tuệ đóng vai trò một thứ hàng hóa. Con người mãi quay cuồng và bị lôi kéo theo đà phát triển vật chất, từ đó gặp nhiều phiền nãobất như ý trong cuộc sống. Vì thế, họ muốn dẹp trừ vọng tưởng để có sự bình ổn nội tâm, cuối cùng đạt đến mức vắng lặng an nhiên. Lối tu này giúp con người trở nên thánh thiện, nhưng là trạng thái si định, ít có trí tuệ nên dễ đưa đến thiên chấp cực đoan. Pháp Thiền thứ hai tức Thiền Đốn ngộ, xem Thiền như một phương tiện giúp hành giả nhận ra bản tâm. Lúc đầu do còn đa niệm, hành giả phải buông bỏ vọng tưởng, nhưng xem sự ức chế này như một cách để thấy được lẽ thật. Sau khi thấy lẽ thật rồi thì không đặt vấn đề vọng hay chơn nữa, vì cả hai đều cùng một thể tánh, luân phiên đắp đổi cho nhau. Cũng như một kẻ tội đồ, không phải đang tiến hóa trên đường trở thành Phật, mà Đức Phật tiềm năng đã sẵn có trong anh ta từ thuở nào. Thế giới này không phải bất toàn và đang từ từ chuyển đổi để đạt đến toàn thiện, mà trong từng phút giây nó đã hoàn hảo. Thiền giả khi có cái nhìn thấu thể vào tận cùng uyên nguyên của cuộc sống, sẽ thấy trong các pháp vô thường đã có sẵn cái chân thường, trong sinh diệt đã có sự sống vĩnh cửu. Đây là nét độc đáo của Thiền Đốn-ngộ mà ít người chấp nhận được. Nhưng nếu ai có thể thưởng ngoạn nét đẹp này, sẽ tiến rất nhanh trên đường đạo. Vì vậy có thể nói, Thiền Đốn-ngộ là đường thẳng tắp chim bay, là tinh ba của Đạo, là đóa kỳ hoa cuối cùng trên cây Phật giáo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10668)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11126)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9620)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10515)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12119)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9770)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10270)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10282)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19287)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14725)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24415)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15468)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10427)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21598)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10297)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19395)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11418)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18799)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9338)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15988)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25769)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37946)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19712)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18818)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14399)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20220)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9587)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14443)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35717)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19814)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23299)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13433)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20331)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10694)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9677)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9266)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8557)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9809)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11268)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8358)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14208)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9974)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15307)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12702)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12144)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11114)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36512)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9031)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17359)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10538)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12265)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13739)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9226)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24984)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11712)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10383)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14602)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13091)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant