Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Một Số Thủ Thuật Khai Tâm

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8387)
3. Một Số Thủ Thuật Khai Tâm

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG BỐN: THUẬT TÁC ÐỘNG THẲNG

III. MỘT SỐ THỦ THUẬT KHAI TÂM

Những chuyện kể ra sau đây, trích từ hành trạng của các Thiền sư, có tính cách gợi ý để chúng ta tự mình khám phá. Do mỗi người có cách nhận định khác nhau, nên sự trình bày trong phần này không nhất thiết giống hoàn toàn với ý người đọc. Một điểm đặc biệt, những vị đã triệt ngộ thì toàn thân đều là Đạo, nên mỗi cử chỉ lời nói của các Ngài đều có thể là thủ thuật khai tâm. Vì thế, các môn đệ phải luôn chú ý từng cách biểu hiện của Thầy để nắm bắt kịp thời những gì Thầy muốn truyền đạt. Khi nhận được lời nói trong vô ngôn thì pháp giới hiển lộ chân tánh, còn giấu giếm điều gì?

Trong kinh diễn tả khi Đức Phật thuyết pháp, đại địa chấn động sáu cách. “Đại địa” là thân tâm người nghe, “chấn động sáu cách” là sự biến chuyển kỳ diệu nơi sáu căn. Đây là trạng thái đột biến của người bắt đầu nhập Đạo. Do sáu căn là nguồn gốc sinh tử nếu mải mê đuổi theo sáu trần, nhưng cũng là nguồn gốc giải thoát nếu biết phản tỉnh nhận ra tự tánh, nên các Thiền sư thường nhắm vào sáu căn để khai tâm. Vì tự tánh vốn rỗng rang không hình tướng, lại biểu hiện sức sống ở sáu căn, nên muốn nhận ra cái không hình tướng, phải khéo nhờ phương tiện sáu căn (Nhà Thiền thường gọi là sáu cửa) này.

Nhắc lại tích Niêm hoa vi tiếu nơi hội Linh Sơn. Vì sao Ngài Ca Diếp mỉm cười khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên? Vì sao ngay đó Đức Phật bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao phó cho Ca Diếp”? Câu chuyện này diễn giải đầy đủ ý nghĩa của cụm từø “Kiến sắc minh tâm”. Ngài Ca Diếp nhìn hoa sen (sắc), nhận ra Tánh thấydiệu dụng của bản tâm. Tâm Thầy và tâm trò không hai không khác, nên Thầy ấn chứng cho trò. Sau này, chư Tổ thường áp dụng nhiều thủ thuật tương tự để đương cơ trực nhận bản tâm: Câu Chi giơ ngón tay, Cảnh Thanh dựng phất tử, Bá Trượng đưa than lửa cho Qui Sơn... Từ nhãn căn nhận ra Tánh thấy gọi là cửa Văn Thù, một trong hai cửa thường được sử dụng (cửa kia là nhĩ căn, cửa Quan Âm), vì đây là hai căn tiếp xúc nhiều nhất với trần cảnh, dễ bị lôi cuốn nhưng cũng dễ xoay lại chính mình.

Đến Ngài A-Nan, lại ngộ bằng Tánh nghe. Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca Diếp

- Khi Thế Tôn phó chúctruyền y kim lan cho sư huynh, còn truyền pháp riêng gì nữa chăng?

Tổ Ca Diếp liền gọi:

- A-Nan !

Ngài ứng thinh:

- Dạ.

Tổ bảo:

- Cây phướn trước chùa ngã lật ngược.

Ngài A-Nan nhân đây tỏ ngộ.

Thủ thuật gọi, hay dùng tiếng để đương cơ trực nhận Tánh nghe cũng được nhiều vị Thiền sư áp dụng: Tổ Lâm Tế hét, Ngài Qui Tông gõ đỉnh diễn tả sức diệu trí Quan-Âm. Ngài Linh Mặc tham vấn Thiền sư Thạch Đầu, tự hẹn nếu một câu khế hợp thì ở lại, không khế hợp thì ra đi. Khi hỏi đáp thấy mù mịt không hiểu, Ngài từ giã. Sư chờ lúc Ngài ra cửa, gọi lớn: “Xà-lê!”. Ngài quay nhìn lại, Sư bảo: “Từ sanh đến tử chỉ là cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?”. Ngài Linh Mặc đại ngộ. Trước khi gọi, ai đang đi? Ai nghe gọi? Ai xoay đầu? Trước sau cũng chỉ là “cái ấy”!

Khai thị qua thân căn, chúng ta nghe chuyện Ngài Văn Môn xin yết kiến Thiền sư Mục Châu. Sư mở cửa, nắm đứng lại và bảo: “Nói! Nói!”. Vân Môn suy nghĩ liền bị xô ra, một chân còn trong ngạch cửa. Mục Châu đóng ập cửa lại, nghiền dập bàn chân Vân Môn. Vân Môn đau quá la to, bỗng nhiên đại ngộ. Biết đau đó là người nào?

Ngài Bá Trượng lúc còn là môn đệ của Mã Tổ, một hôm theo hầu Tổ dạo vườn. Thấy bầy vịt trời bay qua, Tổ hỏi: “Cái gì vậy?”. Ngài trả lời: “Bầy vịt trời”. Lát sau Tổ hỏi: “Đi đâu rồi?”.  Ngài thưa: “Bay qua rồi”. Nếu ngay đây nhận ra Tánh thấy thì Ngài đâu bị Tổ nắm mũi vặn một cái đau thấu trời xanh. Khi Bá Trượng đau quá la lên, Tổ bảo: “Sao không nói bay qua đi?”. Nhân cái đau, Ngài liền tỏ ngộ. Cái gì biết có bầy vịt trời, cái gì biết đau, cái đó đâu từng mất?

Nhờ hương trần nhận ra tự tánh, có câu chuyện nhà nho Hoàng Sơn Cốc, học đạo với Thiền sư Hối-Đường Tổ-Tâm. Sư bảo: “Bên Nho gia nói: Mọi việc rõ ràng, đâu có giấu giếm gì?”. Hoàng mở miệng định nói, Sư ngăn lại. Như vậy nhiều lần. Cuối cùng, Sư dẫn Hoàng lên núi, thấy hoa quế nở rộ, thơm ngát cả một vùng. Sư hỏi: “Ông có nghe mùi hương hoa quế không ?”. Hoàng gật đầu. Sư nói: “Đâu có giấu giếm gì ?”. Hoàng chợt ngộ, đảnh lễ tạ ơn.

Ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ. Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?”. Ngài thưa: “Con đến cầu Phật pháp”. Tổ nạt: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?”. Ngài đảnh lễ thưa: “Cái gì là kho báu trong nhà của Huệ Hải?. Tổ bảo: “Cái ông hỏi Ta đó!”. Ngay đó, Ngài Huệ Hải chợt nhận ra bản tâm. Nếu không có kho báu trọn quyền sử dụng, làm sao biết thưa hỏi nói năng? Đây há chẳng phải nhờ động lưỡi mà nhớ lại tánh giác hằng hữu đó sao? 

Khai thị nhờ ý căn là những câu chuyện thường truyền tụng trong nhà Thiền. Tổ Bồ-đềø Đạt-Ma bảo Ngài Thần Quang: “Đem tâm ra ta an cho!”. Khi Ngài Thần Quang thưa: “Con tìm tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi!”. Hoặc lời dạy đơn giản của Lục Tổ lúc Ngài Huệ Minh đuổi theo giành y bát: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?”. Khi không còn suy nghĩ lăng xăng phân biệt, tâm lúc đó lặng yên; lặng yên nhưng hằng rõ biết mọi việc xung quanh. Cái biết đó là gì?

Chúng ta thấy, những lối khai tâm như thế này nhằm khơi nguồn trí tuệ sắc bén phát sinh từ tự thân hành giả. Muốn đương cơ đến được chỗ bản nhiên tĩnh lặng mà thường biết, không có con đường nào ngắn hơn đường truyền từ tâm qua tâm. Đây là lối đi riêng, truyền thừa ngoài giáo điển, đòi hỏi người trò phải có trực giác bén nhạy và căn cơ đặc biệt, người Thầy đã liễu ngộ lý Thiền, biết khế cơ, khế thời để giúp trò khám phá những điều kỳ diệu trong mảnh đất tâm. Khi trò đã vén mở bí mật ngàn đời sẵn có ấy, trò có cách trình lên Thầy chỗ sở đắc của mình, và Thầy cũng có cách riêng công nhận cái thấy của hai Thầy trò không khác. Nhà Thiền gọi là ấn chứng, truyền tâm ấn hoặc tâm ấn tâm. Chúng ta hãy nghe những đoạn đối đáp tiêu biểu:

Một ngày nọ, Ngài Huệ Khả thưa cùng Tổ Đạt-Ma: “Tâm con đã bặt hết các duyên”. Tổ bảo: “Coi chừng rơi vào không”. Ngài đáp: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến”. Tổ ấn chứng bằng câu: “Ôâng như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế!”.

Ngài Huệ Năng, dù vẫn còn là cư sĩ, đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bí mật gọi vào thất giảng kinh Kim Cang, đến đoạn: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài hoát nhiên đại ngộ, kêu lên: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!”. Ngũ Tổ biết Ngài đã kiến tánh, bảo rằng: “Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu biết được bản tâm mình, thấy bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời người, là Phật”. Cư sĩ Huệ Năng được truyền y bát, trở thành Thiền Tổ Huệ Năng - Tổ thứ sáu Thiền tông Trung-Hoa. 

Trường hợp Ngài Lâm Tế lại càng kỳ đặc. Người khai tâm là Tổ Hoàng Bá, nhưng phải nhờ Thiền sư Đại Ngu điểm nhãn mới đại ngộ, nên trình kiến giải với Thiền sư Đại Ngu bằng một cách không ai dám làm: Sau ba lần hỏi về đại ý Phật pháp đều bị Tổ cho ăn gậy, Ngài Lâm Tế khóc từ giã Tổ ra đi, vì cho là mình không có duyên ở trong pháp hội của Tổ. Tổ chỉ cho Ngài lên nương nhờ Thiền sư Đại Ngu. Được Sư hỏi, Ngài thưa: “Con ba lần thưa hỏi Hòa thượng Hoàng Bá về đại ý Phật pháp, ba lần đều bị đánh. Không biết con có lỗi hay không lỗi?”. Sư bảo ngay: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà tha thiết, vì ngươi chỉ chỗ tột cùng. Ngươi còn ở đây nói có lỗi không lỗi!. Ngài Lâm Tế ngay đây đại ngộ, thốt lên: “Vậy thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít!”. Sư nắm lại bảo: “Vừa rồi nói có lỗi - không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau !”. Ngài Lâm Tế lặng thinh, thoi vào hông Sư ba cái. Sư xô ra, cười rằng: “Thầy của ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta!”. Thấy được chỗ tột cùng, Ngài Lâm Tế còn có cách gì diễn đạt, ngoài việc thoi vào hông người đã giúp đỡ mình? Và Thiền sư Đại Ngu, bằng cử chỉlời nói tưởng không dính dáng gì đến lý Thiền, đã ngầm chỉ ba điều quan trọng: Thứ nhất, “có lỗi - không lỗi” là hai bên, không kẹt hai bên là thấy Đại ý Phật pháp. Thứ hai, ấn chứng cho Ngài Lâm Tế; và Thứ ba, chứng tỏ đạo đức của một vị Thiền sư - Thầy của ngươi là Hoàng Bá chứ không phải ta; muốn báo đáp ân Thầy, nên trở về Hoàng Bá. Câu chuyện như một vở kịch đầy chất đạo và chất thơ, trong đó có sự gắn bó chặt chẽ giữa các nhân vật: Tổ Hoàng Bá - Ngài Tri sự Trần Tôn Túc - Thiền sư Đại Ngu - Ngài Lâm Tế. Ngài Trần Tôn Túcđạo diễn, thúc đẩy tốc độ vở kịch lên đến cao trào (bắt đầu là xúi Ngài Lâm Tế lên hỏi Tổ ba lần, sau cùng xúi Ngài từ giã Tổ trước khi ra đi). Thiền sư Đại Ngu quả thậttri kỷ của Tổ, nhờ Sư nên thâm ý của Tổ mới được tỏ sáng. Nhưng khi Ngài Lâm Tế bừng ngộ, Sư không lưu lại để giúp mình mà bảo Ngài về trả ơn Tổ.

Chúng ta thấy, những cách khai tâmấn chứng như thế này thật độc đáo. Thầy nhằm khơi nguồn trực giác phát sinh tri kiến như thật cho trò; và trò, đến khi ngộ rồi, không bao giờ quên nữa. Thời nay, chúng ta được nghe lý giải nhiều, nên có kiến thức khá về Thiền. Nhưng càng có kiến thức, càng chấp vào kiến thức thì càng khó khai ngộ; hoặc có giải ngộ cũng chỉ lờ mờ hoặc lóe sáng rồi tắt như ánh chớp trong đêm đen. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học, mọi việc đều phải được phân tích, chứng minh cụ thể. Nếu các Thiền sư đời nay dùng những ngôn từ quanh co khó hiểu hoặc những hành động kỳ quặc lạ đời, thì không thuyết phục được ai mà càng làm môn đệ hiểu lầm, sanh chướng ngại trên đường tu. Do đó, trong tinh thần tùy duyênbất biến, bất biến nhưng tùy duyên, các Ngài phải sử dụng nhiều phương tiện thích hợp để nhiếp phục người, giúp người tiến đạo nghiêm thân. Thiền tông nhờ thế, dù trải qua mấy ngàn năm lịch sử vẫn luôn hiện sinh, luôn sống động trong ý nghĩa khế lý, khế cơ và khế thời. 

Một điều rất quan trọng mà chúng ta cần lưu ý: Những gì chúng ta đã tiếp thu được, dù là những vấn đề cốt lõi của Thiền tông, đều chỉ được truyền trao từ người khác chứ chưa phải của báu trong nhà. Muốn hoàn toàn thể nhập tâm Thiền và từ tâm ấy lưu xuất nhiêu ích quần sanh, chúng ta phải tự mình dấn thân, tự mình khai phá vào cõi miền sâu thẳm của tâm thức. Ngay khi chúng ta đã hòa mình trọn vẹn vào hoàn cảnh của các vị được Thiện tri thức chỉ dạy, đã kể trong những câu chuyện trên, và tâm chúng ta đã có cuộc tao phùng kỳ thú với tâm của các Ngài, chúng ta cũng phải nhớ kỹ rằng: Nhận ra tánh nghe, Tánh thấy hay Tánh biết vọng, đó mới chỉ là mặt trăng thứ hai! 

Vậy mặt trăng thật ở đâu?

Chúng ta hãy cùng tĩnh tâm, lắng lòng xem thử. Nếu chưa nhận ra mặt trăng thật, thôi thì nên tiếp tục đọc chương cuối cùng của quyển sách này, chương “Tâm Thiền”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 66)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 318)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
(Xem: 530)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 704)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 703)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 748)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 874)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 838)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 960)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 758)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1088)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1294)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1046)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1319)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1182)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1130)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1344)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1639)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1447)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1561)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2446)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1982)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3081)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2266)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1777)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2628)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2222)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2593)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12250)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 2999)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6709)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4325)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2606)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3259)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2570)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3097)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2890)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3548)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3748)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3225)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3064)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4332)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6023)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5365)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5602)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3155)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5245)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2340)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2331)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2645)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2467)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3336)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5049)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4869)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3971)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 4984)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4734)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4526)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3920)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
(Xem: 8588)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant