Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Phẩm Đại Chúng Vấn

06 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12212)
17. Phẩm Đại Chúng Vấn

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN 
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XVII
PHẨM ĐẠI CHÚNG SỞ VẤN THỨ MƯỜI BẢY

(Hán bộ phần đầu quyển thứ mười)

Bấy giờ đức Thế-Tôn từ trên mặt phóng các thứ ánh sáng màu: Những ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, chiếu thân Thuần-Đà. Thuần-Đà gặp ánh sáng nầy, bèn cùng quyến thuộc mang những thức ăn đến rừng Ta-La để cúng dường đức Phật lần cuối cùngcúng dường chúng Tỳ-kheo.

Lúc đó có Trời Đại-Oai-Đức đứng án trước mặt bảo Thuần-Đà rằng : Ông Thuần-Đà nên dừng lại, chớ dâng cúng.

Đức Như-Lai lại phóng vô lượng vô biên ánh sáng, đại chúng cõi trời gặp ánh sáng nầy liền để cho Thuần-Đà đem những thức ăn uống dâng lên Phật.

Lúc đó chư thiên cùng các chúng sanh đem đồ cúng dường cũng lần đến nơi trước Phật, đồng quì bạch rằng : Ngưỡng mong đức Như-Lai cho phép các Tỳ- kheo thọ vật thực nầy. 

Các Tỳ-kheo biết đã đến giờ ăn, bèn chấp trì y-bát an lành ngồi yên.

Thuần-Đà vì Phật và chúng sanhbố thí những tòa báu sư tử, treo phan lọng lụa cùng chuỗi ngọc hương hoa. Lúc bấy giờ cả tam thiên đại thiên thế giới trang nghiêm tốt đẹp như cõi Cực-lạc ở phương Tây.

Thuần-Đà quì trước Phật, sầu lo buồn bã bạch rằng : “ Ngưỡng mong đức Như- Lai xót thương trụ thọ một kiếp, hoặc dưới một kiếp.”

Phật bảo Thuần-Đà : “ Ông muốn đức Phật ở lâu nơi đời, phải nên mau dâng cúng dường lần cuối cùng.

Lúc đó tất cả Đại-Bồ-Tát, chư thiên, mọi người người khác miệng đồng lời xướng rằng : “ Lạ lùng thay ông Thuần-Đà, trọn nên phước đức lớn có thể làm cho đức Như-Lai nhận lấy lần cúng dường cuối cùng. Chúng ta vô phước uổng công trần thiết !”

Đức Thế-Tôn muốn làm cho tất cả đại chúng mãn nguyện, mỗi mỗi lỗ chơn lông trên thân Phật hoá thành vô lượng Phật mỗi đức Phật đều có vô lượng Tỳ-kheo Tăng. Chư Phật và Tỳ-kheo Tăng nầy thị hiện thọ sự cúng dường của Đại- chúng. Thích-Ca Như-Lai tự thọ phần của Thuần-Đà dâng.

Do thần lực của Phật tám hộc cơm của Thuần-Đà đều cung cấp đầy đủ tất cả Đại-hội. Thuần-Đà thấy vậy, vui mừng hớn hở, tất cả đại chúng cũng đều hoan hỷ.

Toàn thể đại chúng lúc đó đều nghĩ rằng : Nay đức Như-Lai đã nhận sự cúng dường rồi, không bao lâu sẽ vào Niết-Bàn. Lòng đại chúng vừa buồn vừa mừng.

Lúc bấy giờ rừng cây Ta-La vốn hẹp nhỏ, do thần lực của Phật, khoảng không gian như mũi kim đều có vô lượng chư Phật Thế-Tôn và quyến thuộc Bồ- Tát đồng ngồi thọ thực. Những thức ăn cũng đồng không sai khác.

Lúc đó chư Thiên, mọi người, A-Tu-La vân vân, khóc lóc buồn khổ than rằng : Nay đức Như-Lai đã thọ lần cúng dường cuối cùng củachúng ta, rồi đây đức Phật sẽ nhập Niết-Bàn, chúng ta còn biết sẽ cúng dường ai. Nay chúng ta mất hẳn bực điều-ngự vô thượng, khác nào người mù không con mắt.

Đức Thế-Tôn vì muốn an ủi tất cả đại chúng mà nói kệ rằng:

Đại chúng chớ buồn than, Pháp chư Phật phải vậy. Phật nhập nơi Niết-Bàn, Đã trải vô lượng kiếp. Thường hưởng vui vô thượng, Vĩnh biễn ở an ổn. Mọi người lóng lòng nghe ! Phật sẽ nói Niết-Bàn : Phật đã lìa ăn uống. Trọn không khổ đói khát, Phật sẽ vì mọi người, Nói nguyện tùy thuận kia, Khiến tất cả đại chúng, Đều được vui an ổn, Nghe xong nên tu hành, Pháp thườngtrụ của Phật. Giả sử quạ chim cắt, Chung một cây làm ổ. Như anh em thân yêu, Phật mới Niết- Bàn hẳn. Như-Lai xem tất cả, Thương như La-Hầu-La, Thường làm thầy chúng sanh, Sao lại Niết-Bàn hẳn. Giả sử rắn chuột sói, Đồng ở chung một hang, Thương nhau như anh em, Phật mới Niết-bàn hẳn. Như-Lai xem tất cả, Thương như La- Hầu-La, Thường làm cha chúng snh, Thế nào Niết-Bàn hẳn. Giả sử hoa thất- diệp, Thơm như hoa bàn-sư. Trái cây ca-lưu-ca, Chuyển làm trái trấn-đầu, Như- Lai xem tất cả, Thương như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-Bi. Vĩnh viễn nhập Niết- Bàn. Giả sử nhứt-xiển-đề, Hiện thân thành Phật đạo, Thọ hẳn vui đệ nhứt, Phật mới vào Niết-Bàn. Như-Lai xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-Bi, Vĩnh viễn nhập niết-Bàn. Giả sử tất cả chúng. Đồng thời thành Phật đạo, Xa lìa các lỗi lầm, Phật mới nhập Niết-Bàn. Như-Lai xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-bi, Vĩnh viễn nhập Niết-Bàn. Giả sử nước đái muỗi, Ngập lụt cả đại địa, Ngập núi và trăm sông, Biển cả đều đầy tràn. Nếu có việc như vậy, Phật mới vào Niết-Bàn. Lòng bi xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Thường làm thầy chúng sanh, Sao lại Niết-Bàn hẳn. Vì thế nên mọi người, Phải ưa thích chánh pháp. Chẳng nên sanh buồn rầu, Than thở mà khóc lóc. Muốn có hạnh chơn chánh, Phải tu Phật thường trụ, Nên xét pháp như vậy, Còn mãi chẳng biến đổi. Lại nên suy nghĩ rằng : Tam-Bảo đều thường trụ, Thời đặng lợi ích lớn, Như cây khô sanh trái. Đây gọi là Tam-Bảo, Tứ chúng phải khéo nghe, Nghe rồi thêm vui mừng, Liền phát tâm Bồ-Đề. Nếu biết được Tam-Bảo, Thường trụ đồng chơn- đế, Đây thời là thệ nguyện,
Tối-thượng của chư Phật.

Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, có thể y cứ theo thệ nguyện tối thượng của Như-Lai mà tự phát nguyện, nên biết người nầy không có ngu si, kham lãnh thọ sự cúng dường. Bởi nguyện lực nầy có công đức quả báo rất thù thắng nơi thế gian, như A-La-Hán. Nếu ai chẳng thể quan sát Tam-bảo thường trụ như vậy, kẻ nầy là chiên-đà-la.

Nếu có người biết được Tam-Bảo là thường trụ, là nhơn duyên pháp chơn thật, thời lìa khổ đặng an vui, không có gì nhiễu hại lưu nạn được người nầy.

Lúc đó cả đại chúng trời, người, a-tu-la vân vân, nghe lời Phật dạy, đều vui mừng hớn hở tâm tưởng đều nhu, dung nhan vui vẻ oai đức thanh tịnh, khéo dứt ngũ cái, tâm không phân biệt cao hạ, biết Phật là thường trụ. Do đó đại chúng sắp đặt các thứ cúng dường, cõi trời rải các thứ hoa trời, hương bột, hương thoa, đánh trống trời, trỗi kỹ nhạc trời để cúng dường Phật.

Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát rằng : “Ông thấy việc hy hữu của đại chúng đây chăng ?

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Tôi đã thấy. Tôi thấy các đức Như-Lai đông vô lượng vô biên không thể tính đếm, lãnh thọ những thức uống ăn của đại chúng cúng dường. Lại thấy chư Phật thân rất cao lớn, mà chỗ ngồi chỉ choán khoảng bằng mũi kim. Chúng đông vi nhiễu không chướng ngại nhau. Lại thấy đại chúng đều phát nguyện nói mười ba bài kệ. Tôi cũng biết đại chúng đều tự nghĩ rằng : Nay đức Như-Lai riêng thọ tôi cúng dường. Giả sử tất cả vật thực của Thuần-Đà dâng cúng, nghiền nhỏ như vi trần, đem một vi trần dâng một đức Phật, vẫn không khắp đủ, nhưng nhờ thần lực của Phật, mà đều cung cấp đủ tất cả đại chúng, chỉ có các vị Đại-Bồ-Tát như Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương Tử vân vân, mới biết được sự hi hữu nầy. Đây đều là đức Như-Lai phương tiện thị hiện, chúng Thanh-Văn và A-Tu-La vân vân đều biết đức Như-Lai là pháp thường trụ”.

Đức Thế-Tôn bảo Thuần-Đà rằng : “ Nay ông có thấy việc hi hữu lạ lùng nầy
chăng ?”

_ Bạch Thế-Tôn ! Tôi thiệt có thấy. Tôi trước thấy vô lượng chư Phật, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt trang nghiêm nơi thân. Chư Đại-Bồ-Tát cung kính vi nhiễu”.

Phật bảo Thuần-Đà : “ Vô lượng chư Phật mà ông đã thấy, đó là ta hoá hiện ra để đem sự lợi ích vui mừng đến cho tất cả chúng sanh. Hàng Đại Bồ-Tát như vậy công hạnh tu hành chẳng thể nghĩ bàn, có thể làm vô lượng Phật sự. Nầy Thuần-Đà, nay ông đã thành tựu hạnh Đại-Bồ-Tát, đặng trụ thập địa, đã làm xong đầy đủ công hạnh của Bồ-tát”ï

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Đúng như lời Phật dạy. Chỗ tu tập của Thuần-Đà trọn nên hạnh Bồ-Tát, tôi cũng tùy hỷ.

Hôm nay đức Như-Lai vì muốn đem sự sáng suốt lớn cho chúng sanh đời vị lai, mà nói kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy.

Bạch Thế-Tôn ! Tất cả khế kinh có còn nghĩa dư thừa hay không nghĩa dư thừa ?

Nầy Thiện-nam-tử ! Kinh của Phật đã nói cũng có nghĩa dư thừa, cũng không nghĩa dư thừa.

Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói :

Tất cả vật của mình có, Đem bố thí cho tất cả, Chỉ phải nên đều tán thán, Trọn không được có khuy tổn.

Bạch Thế-Tôn ! Nghĩa đó thế nào. Trì giới, hủy giới có sai khác gì ?

Phật nói : “ Chỉ trừ một người, ngoài ra tất cả bố-thí đều nên tán thán”.

Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế nào gọi là chỉ trừ một người ?”

Phật nói : : Người phá giới như trong kinh nầy đã nói”.

Thuần-Đà lại bạch : “ Nay tôi chưa được rõ, cúi mong đức Phật nói rõ cho”.

Phật bảo Thuần-Đà : “ Trong kinh đây nói người phá giới là nhứt-xiển-đề. Ngoài ra tất cả chỗ bố-thí đều nên tán thán, đặng quả báo rất lớn”.

Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Nghĩa nhứt-xiển-đề như thế nào ?”

Phật bảo Thuần-Đà : “ Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói lời thô ác, chê bai chánh pháp, tạo tội nặng nề, trọn chẳng ăn năn, tâm không hổ thẹn, người như vậy gọi là xu hướng con đường nhứt-xiển-đề.

Nếu người phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, tự quyết định biết phạm tội trọng như vậy, mà tâm chẳng biết sợ sệt hổ thẹn, chẳng bằng lòng phát lồ, ở nơi chánh pháp trọn không lòng hộ trì kiến lập, chê bai khinh tiện, nhiều lời lỗi lầm, người như vậy cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.

Nếu lại có ngưới nói rằng : Không Phật, không Pháp, không Tăng, người như vậy, cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.

Chỉ trừ bọn nhứt-xiển-đề này, ngoài ra tất cả chỗ bố thí đều nên tán thán .”

Thuần-Đà lại bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Như Phật nói phá giới, nghĩa đó thế
nào ?”

_ Nầy Thuần-Đà ! Nếu phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch, cùng hủy báng chánh pháp, người như vậy gọi là phá giới.

Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế-Tôn ! người phá giới như vậy có thể cứu vớt được 
chăng ?”

_ Nầy Thuần-Đà! Có nhơn duyên thời cứu vớt được. Nếu người đó còn mặc pháp phục chưa bỏ, trong tâm luôn hổ thẹn sợ sệt, tự trách cứ lấy mình, trong lòng ăn năn, sanh tâm hộ trì chánh pháp, muốn kiến lập chánh pháp và nguyện sẽ cúng dường người hộ pháp. Nếu có người đọc tụng kinh điển Đại-thừa, tôi sẽ đến han hỏi để được thọ trì đọc tụng. Khi đã thông thuộc rồi, tôi sẽ vì người khác giảng nói.

Nầy Thuần-Đà người như trên đây, Phật gọi là chẳng phá giới. Ví như mặt trời mọc lên có thể phá trừ tất cả tối tăm sương mù. Cũng vậy, kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn vi diệu nầy, khi hiện ra nơi đời, có thể phá trừ những nghiệp tội trong vô lượng kiếp của chúng sanh. Thế nên kinh nầy nói rằng hộ trì chánh pháp đặng quả báo lớn, có thể cứu vớt kẻ phá giới.

Nếu có người hủy báng chánh pháp nầy, mà có thể tự ăn năn chừa cải, trở về nơi chánh pháp, tự nghĩ tất cả điều ác đã làm, như người tự hại lấy mình, sanh lòng kinh sợ hổ thẹn. Trừ chánh pháp nầy ra không có gì cứu hộ được. Vì thế nên phải trở về nơi chánh pháp.

Người nầy nếu có thể quy y chánh pháp như trên, bố thí cho người nầy sẽ đặng vô lượng phước. Ngưới nầy cũng gọi là bậc đáng lãnh thọ sự cúng dường của thế gian.

Nếu người phạm những tội nghiệp ác như trên, trãi qua một tháng, hoặc mười lăm ngày, chẳng có lòng phát lồ quy y chánh pháp, nếu bố thí cho người nầy được quả báo rất ít.

Người phạm tội ngũ nghịch, nếu có thể sanh lòng ăn năn hổ thẹn quy y hộ trì chánh pháp như trên, người nầy chẳng gọi là phạm tội ngũ nghịch. Nếu bố thí cho người nầy, đặng vô lượng phước. Nếu phạm tội ngũ nghịch, mà chẳng sanh tâm quy y hộ pháp. Nếu bố thí cho người nầy, đặng phước không đáng kể.

Nếu Thiện-nam-tử ! Người phạm tội trọng nên có tâm nầy : Chánh pháp tức là tạng Như-Lai vi mật, tôi phải hộ trì kiến lập. Nếu ai bố thí cho người nầy,thời đặng quả báo rất tốt.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như thiếu phụ kia mang thai gần ngày sanh nở, nhằm lúc trong nước loạn lạc, lánh nạn trốn đến xứ khác, giữa đường sanh nở. Sau đó nghe nước nhà đã an ổn, đem con trở về, giữa đường phải lội qua con sông nước đầy chảy xiết, đến giữa dòng đuối sức, tự nghĩ rằng : Tôi thà cùng con tôi đồng chết, quyết không bỏ con để được sống một mình. Do đó mẹ con đều bị nước cuốn chìm. Phụ nữ ấy, sau khi chết được sanh lên cõi trời. Phụ nữ nầy tánh vốn tệ ác nhờ lòng thương con mà đặng sanh lên cõi trời.

Cũng vậy, người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, nếu sanh tâm quy y hộ trì chánh pháp thời là phước điền vô thượng của thế gian. Người hộ pháp nầy được vô lượng quả báo tốt như vậy.

Thuần-Đà bạch Phật : Thế-Tôn ! Nếu hạng nhứt-xiển-đề có thể tự ăn năn chừa cải, cung kính cúng dường tán thán Tam-Bảo. Bố thí cho người nầy có đặng quả báo lớn chăng ?

Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chẳng nên nói như vậy. Ví như có người ăn trái Am-La nghĩ rằng : Trong hột trái nầy có lẽ ngọt liền đập bể hột ra để nếm thấy vị rất chát đắng, lòng sanh hối hận sợ mất giống trái tốt, mới gom góp mãnh hột vụn đem ươm nơi đất, siêng năng săn sóc, đến dùng sửa, tô, dầu để tưới bón. Ý ông nghĩ thế nào, hột đó có thể mọc lên cây được chăng ?

_ Bạch Thế-Tôn ! “ Không thể mọc lên được, dầu cho trời mưa chất cam lồ, hột nát bể ấy cũng mọc không được”.

_ Nầy Thiện-nam-tử ! Hạng nhứt-xiển-đề đã đốt cháy căn lành, sẽ ở nơi chỗ nào mà trừ tội đặng.

Nếu sanh tâm lành, thời kẻ đó chẳng gọi là nhứt-xiển-đề.

Do nghĩa nầy tất cả chỗ bố thí đặng quả báo chẳng phải không sai khác. Vì thí cho hàng Thanh-Văn đặng quả báo khác, thí hàng Bích-Chi Phật đặng quả báo cũng khác.
Duy cúng thí đức Như-Lai đặng quả báo vô thượng. Thế nên nói rằng : Tất cả chỗ bố thí chẳng phải không sai khác.

Thuần-Đà lại bạch : “ Thế-Tôn ! Do cớ chi đức Như-Lai nói bài kệ ấy ?”

_ Nầy Thuần-Đà ! Vì có nhơn duyên nên ta nói bài kệ ấy.

Trong thành Vương-Xá có nhà cư sĩ không lòng tin Tam-Bảo, phụng thờ phái Ni- Kiền-Tử đến hỏi Phật nghĩa bố thí nên ta nói bài kệ ấy. Cũng vì các vị Đại-Bồ- Tát mà nói nghĩa tạng bí mật, bài kệ ấy nghĩa như vầy :

Tất cả đó là ít phần tất cả. Phải biết Đại-Bồ-Tát là bực tôn quý trong loài người, nhiếp thủ hạng trì giới cung cấp cho đồ cần dùng, dứt bỏ hạng phá giới, như bỏ cỏ rác.

Nầy Thiện-nam-tử ! Như xưa kia ta nói kệ rằng :

Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Aét có cây cối, Tất cả người nữ. Quyết lòng dua vạy, Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.

Lúc đó Văn-thù Sư-Lợi Bồ-Tát đến lạy chơn Phật mà nói kệ rằng :

Chẳng phải tất cả sông, Điều quyết có xoáy cong, Chẳng phải tất cả rừng, Quyết gọi là cây cối. Chẳng phải mọi người nữ, Quyết có lòng dua vạy. Tất cả hàng tự tại. Chẳng quyết đều hưởng vui.

Văn-Thù Sư-Lợi lại bạch : “ Kệ của đức Phật nói còn có nghĩa dư thừa, cúi mong đức Như-lai nói rõ nhơn duyên kia.

Thế-Tôn ! Vì nơi thế giới nầy, có bờ Câu-da-ni, nơi ấy có con sông Ta-bà-da ngay thẳng chẳng cong, như sợi dây, chạy chăng vào biển Tây. Con sông ấy nơi trong những kinh khác Phật chưa từng nói, xin đức Như-Lai nhơn hội phương đẳng nầy, nói nghĩa còn dư thừa trong kinh A-Hàm, khiến các vị Bồ-Tát hiểu rõ nghĩa ấy.

Thế-Tôn ! Ví như có người, lúc trước thời biết quặng vàng, lúc sau lại chẳng biết vàng. Cũng vậy, đức Như-Lai biết rõ tất cả pháp mà lời nói ra còn có nghĩa dư thừa chẳng trọn. Dầu đức Như-Lai nói nghĩa thừa như vậy, nhưng cũng nên phương tiện giải rõ ý nghĩa kia.

Tất cả rừng rậm quyết là cây cối. Đây cũng chưa được trọn, vì các thứ cây vàng, bạc, lưu ly những cây bằng chất báu, cũng gọi là rừng.

Tất cả người nữ quyết có lòng dua vạy. Đây cũng chưa trọn, vì cũng có người nữ khéo giữ giới cấm trọn nên công đức, có lòng đại từ bi.

Tất cả tự tại quyết hưởng an vui. Đây cũng chưa trọn, ví như Thích-Ca Như-Lai là đấng pháp vương tự tại, chẳng ở trong phạm vi vô thường, chẳng thể diệt dứt là rốt ráo an vui. Hàng Phạm-Vương Đế-Thích, các trời, dầu đặng tự tại, nhưng đều là vô thường, chưa phải an vui. Nếu đặng thường trụ không biến đổi mới đặng gọi là tự tại, chính là Đại-thừa Đại-Niết-bàn.”

Phật bảo Văn-Thù Sư-lợi : “ Nay ông khéo đặng biện tài vô ngại.

Nầy Thiện-nam-tử ! Vả thôi, nên lóng nghe. Ví như trưởng giả mang bịnh khổ, y sĩ hiệp thuốc cao để điều trị. Vì tham, người bịnh muốn uống nhiều. Y sĩ bảo, nếu có thể tiêu hoá được thời nên uống nhiều, nay thân trưởng giả gầy yếu chẳng nên uống nhiều. Phải biết thuốc cao nầy gọi là cam lồ, cũng gọi là độc dược, nếu uống nhiều chẳng tiêu hóa được thời thành chất độc.

Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chớ cho rằng lời nói của y sĩ là trái nghĩa mật lý, làm hư công hiệu của thuốc cao.

Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn vua Ba-Tư -Nặc, Vương-tử, và hậu phi có lòng kiêu mạn, vì muốn điều phục họ nên thị hiện nói lời ấy cho họ sợ sệt, như y sĩ kia. Do đó mà ta nói kệ rằng :

Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Quyết là cây cối. Tất cả người nữ, Quyết lòng dua vạy. Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.

Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Ông nên biết rằng lời nói của đức Như-Lai không có sai sót. Như cõi đất nầy, có thể làm cho lật úp, lời nói của Như-Lai trọn không sai sót. Do nghĩa nầy nên lời nói của đức Như-Lai tất cả có dư thừa.

Lúc đó đức Phật khen Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Từ lâu ông đã biết nghĩa như vậy. Vì thương xót tất cả, muốn làm cho chúng sanh đặng trí huệ, nên ông cố ý hỏi đức Như-Lai nghĩa của bài kệ như vậy “.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở nơi trước Phật mà nói bài kệ rằng :

Với lời nói của người, Tùy thuận chẳng chống trái, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm, Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành.

Thế-Tôn ! Pháp dược như vậy chẳng phải là chánh thuyết, chỉ là đối với lời nói của người khác mà tùy thuận chẳng trái. Cúi mong đức Như-Lai xót thương chánh thuyết cho. Vì Thế-Tôn thường nói, tất cả ngoại giáo cả chín mươi lăm phái, đều đi đến ác đạo. Hàng Thanh-Văn đệ tử đều hướng đến chánh lộ. Khéo giữ gìn cấm giới, nhiếp trì oai nghi, gìn giữ sáu căn, những người như vậy, rất ưa thích đại thừa, thẳng đến thiện-đạo. Cớ sao đức Như-Lai ở trong chín loại kinh thấy có ai hủy báng người khác, thời bèn quở trách. Bài kệ trên đây ý nghĩa như thế nào ?

_ Nầy Thiện-nam-tử ! Ta nói kệ ấy cũng chẳng phải vì tất cả chúng sanh. Lúc đó chỉ vì vua A-Xà-Thế. Chư Phật nếu không nhơn duyên trọn chẳng nghịch thuyết.

Nầy Thiện-nam-tử ! Vua A-Xa-Thế khi hại cha rồi, đến giáo hội muốn chiết phục ta, hỏi rằng : Thế-Tôn có nhứt-thiết-trí hay chẳng có nhứt-thiết-trí. Điều- Đạt trong vô lượng đời đã qua, thường ôm lòng ác, theo dõi muốn làm hại Như-Lai. Nếu là bực nhứt-thiết-trí, sao Như-Lai cho Điều-Đạt xuất gia.

Do nhơn duyên vua A-Xà-Thế hỏi mà ta nói bài kệ :

Với lời nói của người, Tùy thuận chẳng trái nghịch, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm. Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành.

Rồi Phật bảo nhà vua, nay nhà vua hại cha đã tạo tội nghịch, nay phải phát lồ để được tiêu tội, cớ sao lại xem lỗi lầm của người khác.

Nầy Thiện-nam-tử ! Do nghĩa đó nên ta vì vua A-Xa-Thế mà nói bài kệ ấy.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta cũng vì người hộ trì cấm giới thành tựu oai nghi, lại xem lỗi của người khác mà nói bài kệ ấy. 

Nếu lại có người, nhận lãnh lời dạy của người khác, xa lìa những tội ác, rồi dạy lại người khác, làm cho lìa những tội ác. Người như vậy thời là đệ tử của Phật. Đức Thế-tôn vì Văn-thù-Sư-Lợi Bồ-tát mà nói kệ rằng :

Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến thân mạng, Tự tha thứ đáng làm lệ, Chớ giết cũng chớ đánh đập.

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở trước Phật mà nói kệ rằng :

Chẳng phải tất cả đều sợ gậy. Chẳng phải tất cả mến thân mạng, Tự tha thứ đáng lấy làm lệ, Siêng thực hành những phương tiện lành.

Pháp cú của đức Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa. Vì như A-La-hán, Chuyển- Luân Thánh-Vương, ngọc nữ, tượng bảo, mã bảo, chủ tạng đại-thần, Chư Thiên và A-tu-la, không có ai cầm gươm bén có thể làm hại được.

Dũng sĩ, liệt nữ, mã vương, thú vương. Tỳ-kheo trì giới, dầu có oan đối đến làm hại, nhưng họ chẳng sợ sệt. Do nghĩa nầy bài kệ của Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa.

Nếu nói tự tha thứ đáng lấy làm lệ đó, cũng không trọn nghĩa. Vì nếu giả sử A- La-Hán, lấy mình làm lệ cho người, thời có ngã tưởng và thọ mạng tưởng. Nếu có ngã tưởngthọ mạng tưởng thời phải giữ gìn. Như thế thời phàm phu lẽ ra cũng thấy A-La-Hán đều là hạng người còn tu hành. Nếu thấy như vậy, thời thành tà kiến, sẽ phải đọa Địa ngục A-Tỳ.

Lại A-La-Hán trọn không móng tâm sát hại chúng sanh. Vô lượng chúng sanh cũng không thể làm hại A-la-Hán.

_ Nầy Thiện-nam-tử! Nói rằng ngã tưởng là đối với chúng sanh có lòng đại bi, không có tưởng giết hại là nói tâm bình đẳng của A-La-hán. Chớ cho rằng đức Thế-Tôn không nhơn duyên mà nghịch thuyết.

Ngày xưa trong thành Vương-Xá, có người thợ săn giết nhiều nai, mời ta ăn thịt. Lúc đó dầu ta nhận lời mời, nhưng đối với các chúng sanh sanh lòng từ bi xem như La-Hầu-La mà nói kệ rằng :

Sẽ khiến người được trường thọ, Mãi mãi sống ở nơi đời, Thọ trì pháp chẳng giết hại. Dường như thọ mạng của Phật. Do cớ đó nên ta nói bài kệ : Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến thân mạng. Tự tha thứ, đáng làm lệ, Chớ giết, cũng chớ đánh đập.

Lành thay ! Lành thay ! Văn-Thù-Sư-Lợi vì các vị Đại-Bồ-Tát gạn hỏi đức Như-Lai giáo pháp như vậy.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại nói kệ rằng :

Thế nào là kính cha mẹ, Tùy thuận tôn trọng song thân ? Thế nào thật hành pháp nầy, Bị đọa nơi ngục vô gián ?

Đức Như-Lai nói kệ đáp :

Nếu dùng tham ái làm mẹ, Dùng vô minh, để làm cha. Rồi tùy thuận tôn trọng đó, Thời phải đọa ngục vô gián.

Đức Như-Lai lại vì Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ rằng :

Tất cả thuộc kẻ khác, Thời gọi đó là khổ, Tất cả do nơi mình. Tự tại được an vui, Tất cả kẻ kiêu mạn, Thế lực rất bạo ác, Những người hiền người lành, Tất cả đều mến tưởng.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Lời nói của Như-Lai cũng chẳng trọn nghĩa. Ngưỡng mong đức Như-Lai thương xót nói nhơn duyên đó. Ví như con trai của trưởng giả, lúc theo thầy học tập, là thuộc nơi thầy chăng ? Nếu thuộc nơi thầy, thời chẳng phải. Nếu chẳng thuộc nơi thầy, thời cũng chẳng phải. Nếu đặng tự tại, theo nghĩa cũng chẳng phải.

Ví như Vương-tử không có học tập, làm việc gì cũng chẳng thành, ngu tối thường khổ. Vương-tử ấy nếu cho là tự tại, thời chẳng đúng nghĩa, nếu nói thuộc người khác, nghĩa cũng chẳng phải.

Do lẽ trên đây lời nói của Phật gọi là có thừa. Vì thế nên tất cả thuộc người khác chẳng ắt thọ khổ. Tất cả tự tại chẳng ắt hưởng vui. Tất cả kẻ kiêu mạn, thế lực rất bạo ác, lời nầy cũng có thừa. Thế-tôn ! Như các liệt nữ, vì tâm kiêu mạn, mà xuất gia học đạo, giữ gìn cấm giới, thành tựu oai nghi, kềm giữ sáu căn chẳng cho buông lung. Thế nên tất cả phiền não kiêu mạn chẳng ắt là bạo ác.

Người hiền, người lành, tất cả đều mến tưởng lời nầy cũng có thừa.Như người phạm bốn tội nặng rồi chẳng bỏ pháp phục, giữ gìn oai nghi, hộ trì chánh pháp, người khác thấy chẳng mến, người nầy sau khi chết ắt đọa địa ngục. Nếu có người hiền phạm tội trọng, người hộ pháp thấy đó, liền đuổi ra bảo hoàn tục. Do nghĩa nầy tất cả người hiền người lành chẳng ắt đều được mến tưởng.
.
Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi Bồ-tát : Vì có duyên do nên đức Như-Lai ở trong trường hợp nầy nói pháp có nghĩa thừa. Lúc đó trong thành Vương-Xá có người nữ tên Thiện-Hiền trở về nhà cha mẹ. Nhơn đó nàng đến chỗ ta quy y Phật, Pháp, và chúng Tăng mà bạch rằng : Tất cả người nữ chẳng được tự do, tất cả người nam tự tại vô ngại.

Ta biết rõ tâm nàng bèn vì nàng mà nói bài kệ tụng như trên.

Nầy Văn-Thù-Sư-Lợi ! Lành thay ! Lành thay ! Nay ông có thể vì tất cả chúng sanh hỏi nơi đức Như-Lai mật ngữ như vậy”.

Văn-Thù- Sư-Lơiï Bồ-Tát lại nói kệ rằng :

Tất cả loài chúng sanh, Nhờ ăn uống được sống, Tất cả người đại-lực, Tâm họ không tật đố, Tất cả nhơn uống ăn, Mà mắc nhiều bịnh khổ, Tất cả tu tịnh hạnh, Mà đặng hưởng an vui.

Nay đức Thế-Tôn thọ vật thực của ông Thuân-Đà cúng dường, phải chăng đức Như-Lai có sợ sệt ư ?

Đức Phật vì Văn-Thu-ø Sư-Lợi Bồ-Tát mà nói kệ rằng :

Chẳng phải tất cả chúng sanh, Đều nhờ uống ăn mà sống, Chẳng phải tất cả đại lực,
Tâm họ đều không tật đố, Chẳng phải tất cả do ăn, Mà chác lầy bịnh hoạn, Chẳng phải tất cả tịnh hạnh. Đều đặng hưởng quả an vui.

Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Nếu ông mang bịnh, thời đức Phật cũng mang bịnh. Vì hàng A-La-Hán va Bích-Chi Phật, các vị Bồ-Tát cùng chư Phật Như-Lai đều thiệt không có ăn uống. Chỉ vì muốn giáo hóa chúng sanh nên thị hiện thọ dụng vật thực của chúng sanh cúng thí. Làm cho chúng sanh đầy đủ đàn-ba-la-mật, cứu vớt cho ngã quỉ, súc sanh, địa ngục.

Nếu cho rằng đức Như-Lai khổ hạnh sáu năm, thân thể ốm gầy, thời là không đúng. Chư Phật Thế-Tôn giải thoát ba cõi chẳng đồng với phàm phu. Lẽ nào thân thể lại ốm gầy. Chư Phật siêng năng tu tập đặng thân kim cương chẳng đồng với thân nguy hiểm vô thường của người đời. Hàng đệ tử của ta cũng chẳng thể nghĩ bàn, đều chẳng nương nơi ăn uống mà sống.

Nói rằng tất cả người đại lực tâm không tật đố, đây cũng là không trọn nghĩa. Như trong thế gian có người cả đời không có lòng tật đố, mà họ cũng không có đại lực.

Nói rằng tất cả bịnh khổ do ăn uống sanh ra, đây cũng chưa trọn nghĩa. Vì thấy có người mang phải bịnh ở ngoài đưa đến, như bị chém đâm v.v…

Nói rằng tất cả người tu tịnh hạnh hưởng quả an vui, đây cũng chưa trọn nghĩa, vì trong đời cũng có hàng ngoại đạo tu tịnh hạnh, mà vẫn thọ lấy quả khổ não.

Lời thuyết pháp của đức Như-Lai còn có nghĩa thừa, đó là đức Như-Lai vì có duyên do mà nói những kệ như vậy : Xưa kia nơi nước Ưu-Thiền-Ni, có nhà Bà- La-Môn tên Cổ-Đê-Đức đến nơi Phật thọ pháp bát-quan-trai. Lúc đó ta vì nhà Bà-La-Môn ấy mà nói kệ như vậy”.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Những gì gọi là không nghĩa thừa ? Thế nào lại gọi là nhứt-thiết-nghĩa ?”

_ Nầy Thiện-nam-tử ! Chỉ trừ pháp lành trợ đạo, thường, lạc, gọi là nhứt- thiết, cũng gọi là không thừa, ngoài ra các pháp khác cũng gọi là có thừa, cũng gọi là không thừa. Vì muốn làm cho mọi người ưa thích chánh pháp, biết nghĩa có thừa và nghĩa không thừa nầy.

Ca-Diếp Bồ-Tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng : Rất lạ lùng ! Rất lạ lùng ! Đức Thế-Tôn bình đẳng xem chúng sanh như La-Hầu-La”.

Đức Phật tán thán Ca-Diếp Bồ-Tát : Lành thay ! Lành thay ! Chỗ kiến giải của ông rất sâu vi diệu. Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Cúi xin đức Như-Lai nói về sự được công đức ở nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy”.

_ Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có người đặng nghe danh hiệu của kinh nầy, công đức của người đó đặng chẳng phải hàng Thanh-Văn Bích-Chi Phật có thể tuyên thuyết, duy đức Phật biết rõ thôi. Vì chẳng thể nghĩ bàn là cảnh giới Phật. Huống là người thọ trì đọc tụng thông thuộc, biên chép kinh nầy.

Lúc đó chư Thiên, mọi người và A-tu-La ở trước Phật khác miệng đồng lời mà nói kệ rằng :

Chư Phật khó nghĩ bàn. Pháp, Tăng cũng như vậy, Vì thế nay kính thỉnh. Xin Phật nán ở lại. Đại-Ca-Diếp Tôn-Giả, Cùng với A-Nan-Đà, Quyến thuộc của hai ngài, Xin chờ giây lát đến. Và chúa nước Ma-Già, Đại-vương A-Xà-Thế. Chí tâm kính tin Phật, Vẫn còn chưa đến đây. Cúi xin đức Như-Lai, Xót thương ở giây lát, Nơi trong đại chúng nầy. Quyết lưới nghi chúng tôi.

Đức Như-Lai vì đại chúng mà nói kệ rằng :

Trưởng tử trong giáo pháp ta, Tức là ông Đại-Ca-Diếp, Ông A-Nan siêng tinh tấn. Dứt được tất cả lưới nghi. Đại chúng nên quán sát kỹ, A-Nan là bực đa vănTự nhiên có thể hiểu rõPháp thường và pháp vô thường. Vì thế đại chúng chẳng nên, Sanh lòng lo buồn sầu khổ.
 
Bấy giờ đại chúng đem các đồ vật cúng dường Như-Lai. Cúng Phật xong tất cả đều phát tâm vô thượng bồ-đề. Vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ-Tát đặng trụ bực sơ địa.

Đức Thế-Tôn thọ ký cho Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Ca-Diếp Bồ-Tát và Thuần-Đà. Thọ ký xong đức Phật nói rằng : Nầy các Thiện-nam-tử, phải tự tu tập tâm mình, chớ nên phóng dật. Nay lưng ta có bịnh, cả mình đều đau nhức, ta muốn nằm như đứa trẻ nít và người thường bịnh hoạn. Các ông Văn-Thù Sư-Lợi nên vì bốn bộ chúng mà giảng nói đại pháp. Nay ta đem pháp nầy, giao phó cho các ông. Đến khi Đại-Ca-Diếp và A-Nan đến, các ông sẽ phó chúc chánh pháp như vậy”.

Dặn dò xong, vì muốn điều phục chúng sanh, nên đức Phật hiện thân có bịnh, nằm nghiêng bên mặt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10646)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11109)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9596)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10504)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12103)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9760)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10254)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10277)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19250)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14697)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24391)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15452)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10400)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21564)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10277)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19361)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11406)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18781)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9323)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15976)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25746)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37935)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19680)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18793)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14370)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20190)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9573)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14429)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35683)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10715)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19796)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23286)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13423)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20313)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10675)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9672)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9256)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8537)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9802)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11256)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14186)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9968)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15287)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12674)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11403)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12135)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11106)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36492)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9017)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17343)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10527)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12246)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13715)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9211)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24950)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11701)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10375)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14595)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13072)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant