Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955

30 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 6306)
13. Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955

Tôi nghĩ hầu hết chúng ta phải quan tâm rất nhiều về vấn đề của hành động. Khi chúng ta đối diện khá nhiều vấn đềnghèo đói, dư thừa dân số, sự phát triển lạ lùng của máy móc, công nghiệp, ý thức của thoái hóa cả bên trong lẫn bên ngoài – người ta phải làm gì đây? Bổn phận hay trách nhiệm của một cá thể trong sự liên hệ đến xã hội của anh ấy là gì? Đây phải là vấn đề cho tất cả những con ngườisuy nghĩ. Người ta càng thông minh bao nhiêu, người ta càng hành động nhiều bấy nhiêu, người ta càng muốn dấn thân vào sự đổi mới xã hội thuộc loại này hay loại khác nhiều bấy nhiêu. Vì vậy trách nhiệm thực sự của một con người là gì? Tôi nghĩ câu hỏi này có thể được trả lời trọn vẹn và với một ý nghĩa sinh động chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ toàn mục đích của văn minh, của văn hóa.

Rốt cuộc, chúng ta đã dựng lên xã hội hiện nay; nó là kết quả của những liên hệ cá thể của chúng ta. Tại cơ bản xã hội này có giúp đỡ con người tìm được sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ cái tên nào bạn muốn hay không? Hay nó chỉ là một khuôn mẫu dùng để khẳng định sự đáp lại của chúng ta đến một vấn đề, hay loại hành động nào chúng ta nên sử dụng trong liên hệ của chúng ta đến xã hội? Nếu văn hóa, văn minh hiện nay không giúp đỡ con người tìm được Thượng đế, sự thật, nó là một cản trở; và nếu nó là một cản trở, vậy thì mọi đổi mới, mọi hoạt động dành cho sự cải thiện tốt hơn của nó là một thoái hóa thêm nữa, một cản trở thêm nữa đến sự khám phá của sự thật, mà chỉ một mình tự nó có thể mang lại hành động thực sự. 

Tôi nghĩ rất quan trọng phải hiểu rõ điều này, chứ không phải chỉ quan tâm đến loại hoạt động hay xã hội nào người ta nên gắn kết. Chắc chắn đó không là vấn đề. Rõ ràng vấn đề còn sâu sắc hơn nhiều. Người ta có lẽ rất dễ dàng bị mất hút trong loại hoạt động hay đổi mới xã hội nào đó, và rồi thì nó là một phương tiện của tẩu thoát, một phương tiện của tự quên lãng hay hiến dâng qua hành động; nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ giải quyết được nhiều vấn đề của chúng ta. Vấn đề của chúng ta còn sâu sắc hơn nhiều và chúng ta cần một câu trả lời nghiêm túc, mà tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm ra nếu chúng ta có thể tìm hiểu câu hỏi này là liệu nền văn hóachúng ta có lúc này – nền văn hóa hàm ý tôn giáo, toàn thể cái khung luân lýxã hội – có giúp đỡ con người tìm ra sự thật? Nếu nó không, vậy thì chỉ thuần túy sửa đổi một nền văn hóa hay văn minh như thế là một lãng phí thời gian; nhưng nếu nó hữu dụng cho con người trong ý nghĩa thực sự, vậy thì tất cả chúng ta phải dâng hiến toàn tâm hồn chúng ta cho sự đổi mới của nó. Tôi nghĩ rằng, vấn đề tùy thuộc vào việc đó. 

Qua văn hóa chúng ta có ý toàn vấn đề của tư tưởng, phải vậy không? Với hầu hết chúng ta, tư tưởng là kết quả thuộc nhiều hình thức khác nhau của tình trạng bị quy định, của giáo dục, của tuân phục, của những áp lực và những ảnh hưởng mà nó phải tuân theo bên trong cái khung của một nền văn minh đặc biệt. Lúc này tư tưởng của chúng ta bị định hình bởi xã hội, và nếu không có một cách mạng trong suy nghĩ của chúng ta, đối với tôi có vẻ thuần túy đổi mới một xã hội hay văn hóa bên ngoài chỉ là một lẩn tránh, một nhân tố mà cuối cùng sẽ dẫn đến đau khổ to tát hơn. 

Rốt cuộc, điều gì chúng ta gọi là văn minh chỉ là một qui trình của giáo dục tư tưởng trong khuôn mẫu của Ấn độ giáo, trong khuôn mẫu của Thiên chúa giáo hay khuôn mẫu cộng sản, và vân vân. Liệu suy nghĩ được giáo dục như thế có thể tạo ra một cách mạng cơ bản hay không? Bất kỳ áp lực, bất kỳ định hình của tư tưởng, sẽ mang lại sự khám phá hay hiểu rõ điều gì là sự thật hay sao? Chắc chắn tư tưởng phải giải thoát chính nó khỏi mọi áp lực, mà có nghĩa rằng thực sự được tự do khỏi xã hội, khỏi tất cả những hình thức của ảnh hưởng, và nhờ vậy tìm ra điều gì là sự thật; vậy thì chính sự thật đó có một hành động của riêng nó mà sẽ tạo ra một văn hóa hoàn toàn khác hẳn.

Đó là, liệu xã hội tồn tại cho việc tìm ra sự thật hay người ta phải được tự do khỏi xã hội để tìm ra sự thật? Nếu xã hội giúp đỡ con người tìm ra sự thật, vậy thì mọi loại đổi mới bên trong xã hộicần thiết; nhưng nếu nó là một cản trở cho khám phá đó, cá thể không nên thoát khỏi xã hộitìm kiếm điều gì là sự thật hay sao? Chỉ một con người như thế là con người tôn giáo thực sự, không phải con người thực hành vô vàn nghi lễ hay con người tiếp cận cuộc sống qua những khuôn mẫu thần học. Khi cá thể giải thoát chính anh ấy khỏi xã hộitìm kiếm sự thật, trong chính tìm kiếm đó anh ấy không tạo ra một văn hóa khác hẳn hay sao?

Tôi nghĩ đây là một đề tài quan trọng bởi vì hầu hết chúng ta chỉ quan tâm đến đổi mới. Chúng ta thấy nghèo khó, dư thừa dân số, mọi hình thức của không hội nhập, phân chia, và xung đột; và khi thấy tất cả việc đó, người ta phải làm gì đây? Người ta nên bắt đầu bằng cách gia nhập một nhóm hay bằng cách làm việc cho một học thuyết nào đó? Đó là vận hành của một con người tôn giáo à? Chắc chắn con người tôn giáocon người tìm kiếm sự thật, và không là con người đọc và trích dẫn kinh Gita, hay con người đi đến đền chùa mỗi ngày. Việc đó rõ ràng không là tôn giáo; nó chỉ là sự cưỡng bách, tình trạng bị quy định của tư tưởng bởi xã hội. Vì vậy con người nghiêm túc, con người thấy sự cấp bách và khao khát tạo ra một cách mạng tức khắc sẽ làm gì? Anh ấy sẽ làm việc cho đổi mới bên trong cái khung của xã hội phải không? Xã hội là một nhà tù, và anh ấy sẽ chỉ đổi mới nhà tù, trang trí những song sắt của nó và uốn nắn những sự vật đẹp đẽ hơn bên trong những bức tường của nó hay sao? Chắc chắn con người rất nghiêm túc, mà thực sự là tôn giáo, là con người cách mạng duy nhất; không là người khác, và một con người như thế là con người đang tìm kiếm sự thật, đang cố gắng tìm ra Thượng đế hay chân lý là gì.

Bây giờ hành động của một con người như thế sẽ là gì? Anh ấy sẽ làm gì? Anh ấy sẽ làm việc trong xã hội hiện nay, hay anh ấy sẽ tách khỏi nó và không quan tâm đến xã hội gì cả? Tách khỏi không có nghĩa rằng trở thành một khất sĩ, một ẩn sĩ đang tự cô lập chính anh ấy cùng những ý tưởng ru ngủ đặc trưng. Và vẫn vậy anh ấy không thể là một người đổi mới, bởi vì chính là một lãng phí của năng lượng, của tư tưởng, của sáng tạo, khi con người nghiêm túc buông thả trong những đổi mới thuần túy. Vậy thì con người nghiêm túc sẽ làm gì? Nếu anh ấy không muốn trang trí những bức tường của nhà tù, gỡ bỏ một vài song sắt, đưa vào thêm một chút ánh sáng, nếu anh ấy không quan tâm đến tất cả việc đó, và nếu anh ấy cũng thấy sự quan trọng phải tạo ra một cách mạng triệt để, một thay đổi cơ bản trong liên hệ giữa con ngườicon người – sự liên hệ mà đã tạo ra xã hội thảm khốc này trong đó có những người giàu có cực độ và những người tuyệt đối chẳng có gì, cả bên trong lẫn bên ngoài – vậy thì anh ấy sẽ làm gì? Tôi nghĩ rằng rất quan trọng phải đặt câu hỏi này cho chính mình.

Rốt cuộc, văn hóa hiện diện qua hành động của sự thật, hay văn hóa do con người tạo ra? Nếu do con người tạo ra, rõ ràng nó sẽ không dẫn đến sự thật. Và văn hóa của chúng ta do con người tạo ra, bởi vì nó được đặt nền tảng trên những hình thức khác nhau của thâu lợi, không những trong những sự vật thuộc trần tục, mà còn cả trong những sự vật tạm gọi là tinh thần; nó là kết quả của lòng ham muốnvị trí trong mọi hình thức, tự tăng thêm quyền hành, uy tín, và vân vân. Rõ ràng một văn hóa như thế không thể dẫn dắt con người nhận ra cái tối thượng; và nếu tôi thấy điều đó, vậy thì tôi sẽ làm gì đây? Bạn sẽ làm gì nếu thực sự bạn thấy xã hội đó là một cản trở? Xã hội không chỉ là một hay hai hoạt động, xã hội là toàn cấu trúc của sự liên hệ con người trong đó tất cả trạng thái sáng tạo đã kết thúc, trong đó có sự bắt chước liên tục; nó là một cái khung của sợ hãi nơi giáo dục là sự tuân phục thuần túy và trong đó không có tình yêu gì cả, nhưng chỉ là hành động lệ thuộc một khuôn mẫu được mô tả như tình yêu. Trong xã hội này những nhân tố cơ bản là công nhậnkính trọng; đó là điều gì tất cả chúng ta đều đang nỗ lực rất nhiều để thành tựu – được công nhận. Những khả năng của chúng ta, hiểu biết của chúng ta phải được công nhận bởi xã hội để cho chúng ta sẽ là những người nào đó. Khi anh ấy nhận ra tất cả điều này và thấy nghèo khổ, đói khát, phân chia của cái trí thành vô số hình thức khác nhau của niềm tin, con người nghiêm túc sẽ làm gì?

Nếu chúng ta thực sự lắng nghe điều gì đang được nói, lắng nghe trong ý nghĩa muốn tìm ra điều gì là sự thật, để cho khôngxung đột giữa quan điểm của bạn và quan điểm của tôi, hay cá tính của bạn đối kháng cá tính của tôi, nếu chúng ta có thể gạt đi tất cả điều đó và cố gắng tìm ra điều gì là sự thật, mà yêu cầu tình yêu, vậy thì tôi nghĩ rằng trong chính tình yêu đó, trong ý thức của tốt lành đó chúng ta sẽ tìm ra sự thậtsáng tạo một văn hóa mới. Vậy thì người ta được tự do khỏi xã hội, người ta không quan tâm đến sự đổi mới xã hội. Nhưng muốn tìm ra sự thật yêu cầu tình yêu, và những tâm hồn của chúng ta trống rỗng, bởi vì chúng bị lấp đầy những sự việc của xã hội. Bị lấp đầy rồi, chúng ta cố gắng đổi mới, và đổi mới của chúng ta không có hương thơm của tình yêu.

Vì vậy một con người nghiêm túc sẽ làm gì? Anh ấy sẽ tìm kiếm sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ cái tên nào bạn muốn, hay anh ấy sẽ trao toàn tâm hồn và cái trí của anh ấy đến sự cải thiện của xã hội, mà thực sự là sự cải thiện của chính anh ấy? Bạn hiểu rõ chứ? Anh ấy sẽ tìm hiểu điều gì là sự thật, hay anh ấy sẽ cải thiện những điều kiện của xã hội; mà là cải thiện riêng của anh ấy? Anh ấy sẽ cải thiện chính anh ấy vì xã hội, hay anh ấy sẽ tìm kiếm sự thật, mà trong đó không có cải thiện gì cả? Cải thiện hàm ý thời gian, thời gian để trở thành, trái lại sự thật không liên quan gì đến thời gian, nó phải được trực nhận ngay tức khắc.

Vì vậy vấn đề có ý nghĩa lạ thường, phải vậy không? Chúng ta có lẽ nói về sự đổi mới của xã hội, nhưng nó vẫn còn là sự đổi mới của chính người ta. Và cho con người đang tìm kiếm điều gì là sự thật, điều gì là chân lý, không có sự đổi mới của cái tôi; trái lại, có sự kết thúc hoàn toàn của cái tôi, mà là xã hội. Vì vậy anh ấy không quan tâm đến sự đổi mới của xã hội.

Toàn cấu trúc xã hội được đặt nền tảng trên một qui trình của công nhậnkính trọng; và thưa các bạn, chắc chắn một con người nghiêm túc không thể tìm kiếm sự đổi mới của xã hội, mà là sự cải thiện của chính anh ấy. Trong đổi mới xã hội, trong gắn kết chính anh ấy với một điều gì đó tốt lành, anh ấy có lẽ nghĩ rằng anh ấy hiến dâng chính bản thân mình, nhưng nó vẫn còn là tự cải thiện. Trái lại, cho con người đang tìm kiếm cái tột đỉnh, tối thượng, không có tự cải thiện; trong phương hướng đó không có cải thiện của cái “tôi”, không có đang trở thành, không có luyện tập, không có tư tưởng của “Tôi sẽ là.” Điều này có nghĩa thực sự kết thúc mọi áp lực vào tư tưởng, và khi không còn áp lực vào tư tưởng, có suy nghĩ không? Chính áp lực vào tư tưởng là một qui trình của suy nghĩ, suy nghĩ dựa vào một xã hội đặc biệt, hay dựa vào một phản ứng đến xã hội đó; và nếu khôngáp lực, liệu có suy nghĩ hay không? Chỉ cái trí không có chuyển động của suy nhĩ này – mà là áp lực của xã hội – chỉ một cái trí như thế mới có thể tìm ra sự thật; và trong tìm kiếm cái tối thượng, một cái trí như thế sáng tạo văn hóa mới. Đó là điều gì cần thiết: tạo ra một văn hóa hoàn toàn khác hẳn, không phải là đổi mới xã hội hiện nay. Và một văn hóa như thế không thể nào xảy ra nếu con người nghiêm túc không theo đuổi hoàn toàn, bằng năng lượng tổng thể, bằng tình yêu, sự thật. Sự thật không thể tìm được trong bất kỳ quyển sách nào, qua bất kỳ người lãnh đạo nào; nó hiện diện khi tư tưởng tĩnh lặng, và tĩnh lặng đó không thể được mua bằng bất kỳ kỷ luật nào. Tĩnh lặng đến khi có tình yêu.

Khi suy xét một số câu hỏi này, tôi nghĩ rất quan trọng chúng ta nên trải nghiệm trực tiếp điều gì đang được nói, và bạn không thể làm việc đó nếu bạn chỉ quan tâm đến một câu trả lời cho câu hỏi. Nếu chúng ta cùng nhau tìm hiểu vấn đề, chúng ta không thể có những quan điểm về nó – lý thuyết của tôi chống lại lý thuyết của bạn – bởi vì những lý thuyết và những phỏng đoán là một cản trở đến sự hiểu rõ của một vấn đề. Nhưng nếu bạn và tôi có thể yên lặng, từ tốn thâm nhập sâu thẳm vào vấn đề, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ có thể hiểu rõ nó. Thật ra không có vấn đề. Chính cái trí tạo ra vấn đề. Trong hiểu rõ vấn đề người ta đang hiểu rõ về chính mình, những vận hành của cái trí riêng của người ta. Rốt cuộc, một vấn đề tồn tại chỉ khi có bất kỳ lo âu hay phiền muộn nào đã bám rễ trong mảnh đất của cái trí. Và liệu cái trí có thể thấy một lo âu, hay tỉnh thức được bất kỳ phiền muộn nào, mà không cho phép phiền muộn đó bám rễ trong cái trí? Cái trí giống như một bức màn nhạy cảm; nó trực nhận, nó cảm thấy những hình thức khác nhau của phản ứng. Nhưng liệu không thể trực nhận, cảm thấy, phản ứng cùng tình yêu, để cho chính cái trí không trở thành mảnh đất trong đó phản ứng bám rễ và trở thành một vấn đề hay sao?

Người hỏi: Ông đã nói rằng chú ý tổng thể là tốt lành; vậy thì tội lỗi là gì?

K: Tôi thắc mắc liệu có một sự việc như tội lỗi? Làm ơn, hãy chú ý, theo cùng tôi, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu. Chúng ta nói rằng có tốt lànhxấu xa. Có tội lỗi và tình yêu, và chúng ta nói rằng tội lỗixấu xa và tình yêu là tốt lành. Tại sao chúng ta phân chia cuộc sống, gọi việc này là “tốt lành” và việc kia là “xấu xa”, qua đó đang tạo ra xung đột của những đối nghịch? Không phải rằng không có đố kỵ, hận thù, hung bạo trong cái trí và tâm hồn con người, một thiếu vắng của từ bi, tình yêu, nhưng tại sao chúng ta phân chia cuộc sống thành sự việc được gọi là “tốt lành” và sự việc được gọi là “xấu xa”. Liệu thực sự không chỉ có một sự việc, đó là một cái trí không chú ý? Chắc chắn khi có chú ý tổng thể, đó là, khi cái trí hoàn toàn tỉnh thức, cảnh giác, canh chừng, không có sự việc như xấu xatốt lành; chỉ có một trạng thái tỉnh thức. Lúc đó tốt lành không là một phẩm chất, không là một đức hạnh, nó là một trạng thái của tình yêu. Khi có tình yêu không có xấu xa hay tốt lành, chỉ có tình yêu. Khi bạn thực sự thương yêu một ai đó bạn không đang suy nghĩ về tốt lành hay xấu xa, toàn thân tâm của bạn ngập tràn tình yêu đó. Chỉ khi nào có sự ngừng lại của chú ý tổng thể, của tình yêu, lúc đó xung đột hiện diện giữa tôi là gì và tôi nên là gì. Lúc đó cái tôi là là “xấu xa”, và cái tôi nên là là tạm gọi là “tốt lành”.

Liệu có thể không suy nghĩ dựa vào phân chia, không đập vỡ cuộc sống thành tốt lànhxấu xa, không bị trói buộc trong xung đột này? Xung đột của tốt lànhxấu xa là sự tranh đấu để trở thành một cái gì đó. Khoảnh khắc cái trí ham muốn trở thành một cái gì đó, phải có nỗ lực, xung đột giữa những đối nghịch. Đây không là một lý thuyết. Bạn quan sát cái trí riêng của bạn và bạn sẽ thấy rằng khoảnh khắc cái trí ngừng suy nghĩ dựa vào trở thành một cái gì đó, có sự ngừng lại của hành động – mà không là trì trệ; nó là một trạng thái của chú ý tổng thể mà là tốt lành. Nhưng chú ý tổng thể đó không thể xảy ra chừng nào cái trí còn bị trói buộc trong nỗ lực để trở thành một cái gì đó.

Làm ơn hãy lắng nghe, không chỉ điều gì tôi đang nói, nhưng những vận hành của cái trí riêng của bạn, và lắng nghe đó sẽ phơi bày cho bạn rằng tư tưởng đang nỗ lực để trở thành một cái gì đó bằng sự kiên trì phi thường làm sao, mãi mãi đấu tranh để là một cái gì khác hơn nó là, mà chúng ta gọi là bất mãn. Chính nỗ lực để trở thành một cái gì đó này là “tội lỗi”, bởi vì nó là chú ý từng phần, nó không là chú ý tổng thể. Khi có chú ý tổng thể, không có tư tưởng của trở thành, chỉ có một trạng thái đang là. Nhưng khoảnh khắc bạn hỏi, “Làm thế nào tôi sẽ đến được trạng thái đang là đó, làm thế nào tôi sẽ tỉnh thức trọn vẹn được?” bạn đã rơi vào con đường của tội lỗi rồi bởi vì bạn muốn đạt được. Trái lại, nếu người ta chỉ nhận ra rằng chừng nào còn có trở thành, gắng sức, tạo ra một nỗ lực để làm một cái gì đó, người ta đang ở trên con đường của “tội lỗi”, nếu người ta có thể trực nhận được sự thật của điều đó, chỉ thấy sự kiện như nó là, vậy thì người ta sẽ phát giác rằng đó là trạng thái của chú ý tổng thể; và trạng thái đó là tốt lành, không có nỗ lực trong nó.

Người hỏi: Những nền văn hóa lớn luôn luôn được đặt nền tảng trên một khuôn mẫu, nhưng ông nói về một văn hóa mới mẻ được tự do khỏi khuôn mẫu. Một văn hóa không có khuôn mẫu liệu có thể được hay không?

K: Cái trí không cần được tự do khỏi tất cả những khuôn mẫu để tìm ra sự thật hay sao? Và khi được tự do để tìm ra cái là sự thật, liệu nó sẽ không sáng tạo khuôn mẫu riêng của nó, mà xã hội hiện nay có lẽ không công nhận hay sao? Liệu cái trí bị trói buộc trong một khuôn mẫu, suy nghĩ trong một khuôn mẫu, bị quy định bởi xã hội, có thể tìm ra cái không đo lường được mà không có khuôn mẫu hay sao? Ngôn ngữ đang được nói này, tiếng Anh, là một khuôn mẫu được phát triển qua hàng thế kỷ. Nếu có sáng tạo được tự do khỏi những khuôn mẫu, vậy thì sáng tạo đó, tự do đó có thể sử dụng phương pháp kỹ thuật của ngôn ngữ; nhưng qua phương pháp kỹ thuật, khuôn mẫu của ngôn ngữ, sự thật không bao giờ có thể được tìm ra. Qua luyện tập, qua một loại đặc biệt của thiền định, qua hiểu biết, qua bất kỳ hình thức nào của trải nghiệm, tất cả việc đó đều trong một khuôn mẫu; cái trí không bao giờ có thể hiểu rõ cái gì là sự thật. Muốn hiểu rõ cái gì là sự thật, cái trí phải làm tự do chính nó khỏi những khuôn mẫu. Một cái trí như thế là một cái trí tĩnh, và vậy là cái sáng tạo có thể sáng tạo hoạt động riêng của nó. Nhưng bạn thấy không, hầu hết chúng ta không bao giờ được tự do khỏi những khuôn mẫu. Không bao giờ có một khoảnh khắc khi cái trí được hoàn toàn tự do khỏi sợ hãi, khỏi tuân phục, khỏi thói quen trở thành một cái gì đó này, hoặc trong thế giới này hoặc trong thế giới thuộc tinh thần, tâm lý. Khi qui trình của trở thành trong bất kỳ phương hướng nào hoàn toàn kết thúc, lúc đó cái là Thượng đế, sự thật, hiện diệnsáng tạo một khuôn mẫu mới, một văn hóa mới của riêng nó.

Người hỏi: Vấn đề của cái trí và vấn đề xã hội của nghèo khổ và bất bình đẳng được chặn đứng và hiểu rõ đồng thời. Tại sao ông nhấn manh chỉ một khía cạnh?

K: Tôi đang nhấn mạnh chỉ một khía cạnh à? Và liệu có một sự việc như là vấn đề xã hội của nghèo khổ và bất bình đẳng, của thoái hóađau khổ, tách rời khỏi vấn đề của cái trí hay sao? Không phải chỉ có một vấn đề, đó là cái trí hay sao? Chính cái trí đã tạo ra vấn đề xã hội; và khi đã tạo ra vấn đề, nó cố gắng giải quyết nó, mà không thay đổi cơ bản trong chính nó. Vì vậy vấn đề của chúng ta là cái trí, cái trí mà muốn cảm thấy cao quý hơn và vì vậy tạo ra sự bất bình đẳng xã hội, mà theo đuổi sự thâu lợi trong vô vàn hình thức khác nhau bởi vì nó cảm thấy an toàn trong tài sản, trong liên hệ, hay trong những ý tưởng, mà là hiểu biết. Chính đòi hỏi liên tục để được an toàn tạo ra bất bình đẳng, đó là một vấn đề chỉ có thể giải quyết được khi chúng ta hiểu rõ cái trí mà tạo ra sự khác biệt, cái trí mà không có tình yêu. Luật pháp sẽ không giải quyết được vấn đề này, nó cũng không thể được giải quyết bởi những người cộng sản hay những người xã hội. Vấn đề bất bình đẳng có thể được giải quyết chỉ khi nào có tình yêu, và tình yêu không chỉ là một từ ngữ để diễn tả linh tinh. Con người thương yêu không quan tâm đến người cao quý và người thấp hèn; đối với anh ấy không có bình đẳng hay bất bình đẳng; chỉ có một trạng thái tồn tại mà là tình yêu. Nhưng chúng ta không biết trạng thái đó, chúng ta không bao giờ cảm thấy nó. Vì vậy làm thế nào cái trí mà hoàn toàn quan tâm đến những hoạt động và những bận tâm riêng của nó, mà đã tạo ra đau khổ như thế rồi trong thế giới và đang tiếp tục ngay trên con đường tạo tác sự hủy hoại, sự ranh mãnh thêm nữa – làm thế nào một cái trí như thế có thể tạo ra bên trong chính nó một cách mạng tổng thể? Chắc chắn đó là vấn đề. Và chúng ta không thể tạo ra cách mạng này qua bất kỳ đổi mới xã hội nào, nhưng khi cái trí chính nó thấy được sự cần thiết của cứu rỗi tổng thể này, vậy thì cách mạng ở đó.

Chúng ta luôn luôn đang nói về nghèo khổ, bất bình đẳng, và đổi mới bởi vì tâm hồn chúng ta trống rỗng. Khi có tình yêu chúng ta sẽ không có những vấn đề, nhưng tình yêu không thể hiện diện qua bất kỳ luyện tập nào. Nó có thể hiện diện chỉ khi nào bạn ngừng hiện diện, đó là, khi bạn không còn quan tâm về chính bạn, vị trí của bạn, thanh danh của bạn, những tham vọng và những thất vọng của bạn, khi bạn hoàn toàn chấm dứt suy nghĩ về chính bạn, không phải ngày mai nhưng ngay lúc này. Sự bận tâm với chính mình này đều giống hệt nhau, dù nó là sự bận tâm của những con người đang theo đuổi cái gì anh ấy gọi là Thượng đế, hay nó là sự bận tâm của con người đang làm việc cho một cách mạng xã hội. Và một cái trí quá bận tâm như thế không bao giờ có thể biết được tình yêu là gì.

Người hỏi: Hãy nói cho chúng tôi về Thượng đế.

K: Thay vì tôi nói cho bạn biết Thượng đế là gì, chúng ta hãy tìm ra liệu bạn có thể nhận ra trạng thái lạ thường đó, không phải ngày mai hay trong một tương lai xa xôi nào đó, nhưng ngay lúc này khi chúng ta đang cùng nhau ngồi yên lặng ở đây. Chắc chắn điều đó còn quan trọng hơn nhiều lắm. Nhưng muốn tìm ra Thượng đế là gì, tất cả niềm tin phải không còn. Cái trí muốn khám phá cái gì là sự thật không thể tin tưởng sự thật, không thể có những lý thuyết hay phỏng đoán về Thượng đế. Làm ơn hãy lắng nghe. Bạn có những phỏng đoán, bạn có những niềm tin, bạn có những giáo điều, bạn đầy những giả thuyết. Bởi vì đã đọc quyển sách này hay quyển sách kia về sự thật là gì hay Thượng đế là gì, cái trí của bạn bị rối loạn lạ kỳ. Một cái trí đầy hiểu biếtrối loạn; nó không tĩnh lặng, nó chỉ bị chất đầy, và chỉ bị chất đầy không thể hiện một cái trí tĩnh lặng. Khi cái trí đầy ắp những niềm tin, hoặc tin tưởngThượng đế hay không có Thượng đế, nó bị chất đầy, và một cái trí bị chất đầy không bao giờ có thể tìm ra cái gì là sự thật. Muốn tìm ra cái gì là sự thật, cái trí phải được tự do, được tự do khỏi những nghi lễ, khỏi những niềm tin, khỏi những giáo điều, hiểu biết và trải nghiệm. Chỉ đến lúc đó cái trí mới có thể nhận ra cái là sự thật. Bởi vì một cái trí như thế là tĩnh lặng, nó không còn có chuyển động của ra ngoài hay chuyển động của vào trong mà là chuyển động của ham muốn. Nó đã không đè nén ham muốn, mà là năng lượng. Trái lại, muốn cái trí tĩnh lặng phải có một phong phú của năng lượng; nhưng không thể có sự dư thừa hay trọn vẹn của năng lượng nếu có bất kỳ hình thức nào của chuyển động bên ngoài, và vì vậy một phản ứng bên trong. Khi tất cả những chuyển động đó kết thúc cái trí là tĩnh lặng.

Tôi không đang cuốn hút bạn để yên lặng. Chính bạn phải thấy sự quan trọng của xóa bỏ, gạt đi mà không có nỗ lực, không có kháng cự, tất cả những tích lũy của hàng thế kỷ, những mê tín, hiểu biết, những niềm tin; bạn phải thấy sự thật rằng bất kỳ hình thức nào của chất đầy làm cái trí rối loạn, hao tổn năng lượng. Muốn cái trí là yên lặng phải có một phong phú của năng lượng, và năng lượng đó phải đứng yên. Và nếu bạn thực sự đến trạng thái trong đó không còn nỗ lực, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng năng lượng đó, đang đứng yên, có chuyển động riêng của nó mà không là kết quả của cưỡng bách hay áp lực của xã hội. Bởi vì cái trí có năng lượng phong phú mà yên lặng và đứng yên, cái trí chínhtrở thành cái tối thượng. Không có người trải nghiệm cái tối thượng, không có thực thể nói rằng, “Tôi đã trải nghiệm sự thật.” Chừng nào còn có một người trải nghiệm, sự thật không thể hiện diện, bởi vì người trải nghiệm là chuyển động để thâu lượm trải nghiệm hay để xóa tan trải nghiệm. Vì vậy phải có một kết thúc hoàn toàn của người trải nghiệm.

Chỉ lắng nghe điều này. Đừng tạo nên một nỗ lực, chỉ thấy rằng người trải nghiệm, mà là chuyển động bên ngoài và bên trong của cái trí, phải kết thúc. Phải có một kết thúc hoàn toàn của tất cả chuyển động như thế, và việc đó cần năng lượng kinh ngạc, không phải sự đè nén của năng lượng. Khi cái trí hoàn toàn tĩnh lặng, đó là, khi năng lượng không bị hao phí hay bị biến dạng qua kỷ luật, vậy thì năng lượng đó là tình yêu; vậy thì cái là sự thật không tách rời khỏi chính năng lượng đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8646)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 5492)
Thiền định là một phép luyện tập thật cần thiết giúp phát huy tối đa các phẩm tính tinh thần như tình thương yêu, lòng từ bi và lòng vị tha.
(Xem: 8404)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 9379)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8959)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 4323)
Nếu bạn tinh tấn chánh niệm hàng ngày, bằng cách tích cực hành thiền trong ba mươi phút hay một giờ, và chánh niệm tổng quát vào mọi tác động hàng ngày thì bạn gặt hái nhiều điều tốt đẹp.
(Xem: 4079)
Chữ “căng thẳng” là dịch sát nghĩa của chữ “stress” trong tiếng Anh. Ai cũng biết rằng căng thẳng là cội nguồn của rất nhiều tai họa.
(Xem: 10486)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 9102)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8608)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 4731)
Trong buổi nói chuyện này, tôi sẽ đặc biệt bàn về cái mà chúng ta vẫn gọi là sự đau khổ cùng với con đường quán niệm nó theo đúng tinh thần của pháp môn Tuệ Quán (Tứ Niệm Xứ).
(Xem: 9226)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7535)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 8124)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7981)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 7657)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8393)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 11905)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 8387)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10807)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10546)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 8159)
Khi nói “thiền trong cuộc sống hằng ngày”, ta nên hiểu thiền ở đây là sự duy trì chánh niệm, tỉnh giác nơi thân và tâm...
(Xem: 4893)
Chạy bộ dĩ nhiên là tốt cho sức khỏe. Nhưng chạy bộ chophù hợp với lời khuyên của bác sĩ sẽ tốt nhiều thêm chosức khỏe -- hơn là khi chạy chỉ là chạy.
(Xem: 5653)
Thiền định dựa vào hơi thở là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền phát huy một sự chú tâm cao độ mang lại sự tĩnh lặng và...
(Xem: 15526)
Có lẽ cách hay nhất để hiểu chánh niệm (mindfulness) là gì, theo quan điểm truyền thống Phật giáo, là nhận ra những gì không phải là chánh niệm.
(Xem: 10595)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10347)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10844)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 10606)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
(Xem: 10855)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9958)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 13394)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 19911)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 13326)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 18639)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10735)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 13552)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12120)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11163)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10390)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10323)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 10579)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11974)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 9387)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 11022)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm;
(Xem: 6153)
Khi đã bước vào con đường tu tập tâm linh, nhất là con đường Phật giáo, thì bệnh tật sẽ là một lời giáo huấn...
(Xem: 5577)
Số tức quan tức là quán xét hơi thở mà đếm số. Đức Phật Thích-ca khi xưa dưới cội bồ-đề, ngồi trên tòa cỏ, xét đếm như vậy.
(Xem: 5749)
Khi nói về thiền mọi người thường thấy một thiền sinh ngồi với đôi mắt nhắm lại. Chỉ có ngồi thiền không có nghĩa là thiền sinh đó đang hành thiền,
(Xem: 7072)
Chìa khóa để mở cánh cửa thiền định, là sự-nhận-biết. Nhưng, từ ngữ nầy có ý nghĩa gì đối với bạn?
(Xem: 6549)
Khi bạn đọc các sách về thiền định, hoặc khi thiền định được trình bày bởi các nhóm khác nhau, đa số mọi người nhấn mạnh về phần kỹ thuật.
(Xem: 4481)
Chúng ta đang tìm hiểu để phát triển một tâm thức thiền quán mà tự nó là trong sáng một cách nhiệt tình, nơi mà ý thứcquang minhtỉnh giác.
(Xem: 5415)
Tâm tỏa rộng, tâm vui sướng và tâm thương yêu là các thể dạng tâm thần của một môn đệ của Đức Phật. Nếu muốn vượt thoát ra khỏi thế giới của dục vọnghình tướng, chúng ta phải biết tu tập bằng cách buông bỏ chính mình.
(Xem: 6752)
Niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập, được thực hành thường xuyên là có quả báu lớn, có lợi ích lớn.
(Xem: 10388)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11995)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10766)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12428)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9878)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 13895)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9630)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant