Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đại sư Hám Sơn

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10525)
04. Đại sư Hám Sơn

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ĐẠI SƯ HÁM SƠN  

Mình sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những khoảng đường riêng, như bị một loại định mệnh chi phối. Một loại định mệnh không do ông trời sắp đặt, không do thượng đế ban cho, mà do hành động và những thói quen mình đã gầy ra trong quá khứ.

Những thói quen, mà cái quả của nó đã thành định nghiệp, tức NHÂN đã có, DUYÊN đã đủ, thì mình không thể thay đổi gì nữa.[01] Đại sư Hám Sơn ra đời với một điềm mộng : Bồ tát Quán Thế Âm mang đến một đứa trẻ, mẹ Sư ôm vào lòng và sinh ra Sư. Cội từ bi đã khai hoa nở nhụy. Đứa con của lòng từ, ắt hẳn phải theo con đường từ bi hỉ xả. Một tuổi, Đại sư đau nặng, bà phải phát nguyện đưa con vào chùa. Định nghiệp tu hành, con đường của bậc Long tượng, lần nữa lại được xác định.

Tôi sinh ra ở Toàn Tiêu thuộc Nam Kinh. Mẹ tôi là một Phật tử mộ đạo, suốt đời bà thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Một hôm bà nằm mộng thấy Bồ tát dắt đến một đứa bé, bà ôm vào lòng, sau đó sinh ra tôi. Nhưng được một tuổi thì tôi đau nặng. Sợ con qua không khỏi, bà cầu Quán Thế Âm và hứa, nếu tôi hết bệnh bà sẽ cho tôi vào chùa làm tăng. Vì thế, khi tôi hồi phục, bà ghi tên tôi vào chùa Trường Thọ.

Liễu thoát sinh tử là một trong những đích nhắm của người tu Phật. Đó là việc đã được huân tập từ bao kiếp trước, nên trong cái tuổi đáng nhẽ chỉ biết chơi đùa vô tư vòi vĩnh mẹ cha, Sư lại chú tâm vào việc sống chết. Sống từ đâu có và chết sẽ đi về đâu? 

Năm lên 7, mẹ cho tôi đi học. Một lần đi về, thấy cậu nằm bất động trên giường, tôi hỏi thì mẹ trả lời “Cậu ngủ”. Nhưng tôi gọi cậu mấy lần, cậu vẫn nằm yên. Còn mợ tôi thì gào thét “Trời ơi! mình đi đâu rồi hở mình?”. Bàng hoàng, tôi hỏi “Cậu nằm đó sao mợ nói đi đâu?” Lúc đó mẹ mới nói thật “Cậu con chết rồi”. Tôi hỏi bà “Chết đi về đâu?”. Bà lắc đầu. Từ đó câu hỏi ấy bám chặt vào tâm trí tôi.

Ít lâu sau, mợ tôi sinh được một em bé. Lần đầu tiên đến thăm, tôi hỏi “Đứa bé này vào bụng mợ bằng cách nào?”. Mẹ tôi cười “Vớ vẩn! Thế mày vào bụng mẹ bằng cách nào?”. Sanh tử trở thành mối nghi rất lớn đè nặng tâm trí tôi.

Tình thương của mẹ đối với con là vô bờ. Nhưng cách thể hiện thì không như nhau. Có thứ khiến con trẻ hư hoại bê tha. Có thứ khiến con trẻ đắm chìm trong tình cảm thường tình. Có thứ khiến con trẻ vững vàng rắn rỏi. Túc duyên sâu dày, căn khí thượng thừa sẵn đủ, nên mẹ là hiện thân trợ cho căn duyên đời trước có điều kiện đâm chồi, Tổ thầy là hiện thân trợ cho căn khí thượng thừa được mãi xum xoe, kết lá ra hoa, che mát chúng hữu tình. 

Năm tôi lên 8, để tiện cho việc học hành, Tôi được gởi qua ở nhờ nhà một người bà con cách đó một con sông. Mẹ tôi cho tôi về nhà thăm bà một tháng một lần. Sau ngày nghỉ thường lệ, tôi không muốn trở lại trường và nói với bà “Con không muốn xa mẹ”. Bà nổi xung thiên, đánh và đuổi tôi ra tận bờ sông. Nhưng tới đó, tôi vẫn bám chặt lấy bà. Đang cơn giận, bà túm tóc tôi ném xuống sông rồi bỏ đi thẳng. Khi tôi thoát chết về được đến nhà, bà hét lớn “Để cái đồ vô tích sự đó sống làm gì, thà để nó chết đi còn hơn”. Bà lại đánh và đuổi tôi. Tôi thấy mẹ quá nghiêm khắc và tàn nhẫn, nên quyết từ rày về sau không về nhà nữa. 

Sau này tôi mới biết, bà đã nhiều lần đứng khóc ở bờ sông và nói với ngoại ‘Con phải làm cho nó vượt qua cái tính đa cảm thường tình, để nó có thể học hành nghiêm túc”. 

Năm lên 9, tôi được gởi vào chùa đi học. Khi nghe tụng đến phẩm Phổ Môn, biết Quán Thế Âm có thể cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau, tôi rất phấn khích. Một lần theo mẹ đến chùa lễ tạ Bồ tát, tôi hỏi “Mẹ có biết kinh của Bồ tát Quán Thế Âm không?”. Bà lắc đầu. Tôi lập tức tụng cho bà nghe. Giọng tôi lúc đó cứ như một ông tăng già, khiến bà thích thú vô cùng. Bà hỏi “Con đã học ở đâu?”. Tôi trả lời là tôi đã mượn kinh về tự nghiên cứu tụng lấy. 

Năm tôi lên 10, bị mẹ ép học quá, tôi buồn lắm. Một lần hỏi bà : Vì sao con phải đi học?

- Để có được một địa vị trong xã hội
- Vậy sau này con được địa vị gì?
- Bắt đầu có thể chỉ là một địa vị thấp. Nhưng có thể sau đó sẽ lên chức tể tướng. 
- Cho là con có thể trở thành tể tướng đi, nhưng sau đó thì sao?
- Người ta chỉ có thể lên tới đó mà thôi. 
- Nhưng làm một công chức cao cấp thì có ích gì? Làm việc cực khổ cả đời để chẳng được gì thì thật vô ích. Con muốn làm cái gì đó có giá trị vĩnh hằng.
- Trời đất! Một đứa con vô tích sự như mày, thì chắc chỉ làm được một ông tăng du phương mà thôi.
- Làm một tăng du phương thì có ích gì?
- Tăng là một đệ tử Phật. Ông muốn đi đâu trên thế gian này cũng được. Ông là một người tự do thật sự. Ở đâu, thiên hạ cũng cúng dườngphục dịch ông. 
Tôi thấy rất hứng khởi với việc đó, nên nói : Vậy thì hay lắm. Con muốn làm một ông tăng.
Bà lắc đầu : Ta e con không có tài cán đó.
Thấy tôi ngạc nhiên, bà giải thích : Trên thế gian này có rất nhiều trạng nguyên, nhưng Phật Tổ thì rất hiếm. Hàng tăng mà mẹ Đại sư muốn nói chính là hàng có chí nguyện làm Phật làm Tổ, lấy định tuệ nuôi sống tuệ mạng của mình. 

Nghe vậy tôi quả quyết : Con có khả năng đó, chỉ sợ mẹ không cho con đi.

Bà hứa : Nếu con có khả năng, ta sẽ cho con theo đường của con.

Tôi nuôi trong lòng lời hứa đó của mẹ.
Năm tôi 11 tuổi, thấy gần nhà có vài người đầu đội nón lá, trên vai chất đầy vật dụng, tôi liền hỏi mẹ : Mấy người đó là ai?

- Là những tăng sĩ du phương

Nghe vậy, tôi rất thích. Tôi quan sát kỹ mọi thứ. Họ đặt gánh xuống, rồi nghỉ ở một gốc cây bên đường. Một người hỏi mẹ “Có thể kiếm đâu ra thức ăn thưa bà?”. Mẹ trả lời “Xin chờ, tôi sẽ nấu cơm cúng dường”. Rồi bà phục dịch các tăng sĩ với tất cả sự tôn kính của mình.

Ăn xong, các tăng nhân quảy gánh lên vai. Họ dơ một tay lên chào từ biệt và định nói một cái gì đó. Nhưng mẹ vội nói “Xin đừng cám ơn”. Tôi thì không mấy vừa lòng về thái độ từ biệt của mấy ông tăng, tôi nói với mẹ “Mấy ông tăng này quá vô lễ. Không chào hỏi lấy một lời mà đã bỏ đi”. Bà giải thích “Nếu họ cảm ơn, ta sẽ được ít phước hơn với việc cúng dường của mình”. Lúc đó, tôi càng thấy ưu thế của hàng tu sĩ. Cuộc gặp gỡ khiến quyết định làm tăng của tôi càng mạnh mẽ. Nhưng trở ngại duy nhất của tôi lúc này là tôi chưa có cơ hội.

Rồi thời cơ cũng đến. Năm tôi 12 tuổi, nghe ở chùa Báo Ân có một cao tăng tên là Tây Lâm, tôi thưa với cha mình muốn đến đó. Cha không cho đi, nhưng mẹ lý luận “Tốt hơn, nên để cho con theo ý nguyện của nó. Giúp nó thực hiện hơn là ngăn cản”. Và thế là tôi được gởi đến chùa Báo Ân.

Ngay khi thấy tôi, Đại sư liền nói “Thằng bé này không phải thường. Nếu để nó trở thành một ông tăng bình thường thì thật là phí”. Rồi thầy dẫn tôi đến tự viện. Lúc ấy thầy Vô Cực đang thuyết pháp. Thầy Triệu Văn Túc rất thích khi trông thấy tôi, ngài nói “Thằng nhỏ sau này sẽ thành bậc thầy của trời người”. Rồi ngài hỏi tôi “Con thích làm quan hay làm Phật?” Tôi trả lời “Dĩ nhiên là làm Phật”. Ngài cười và quay lại nói với những tăng sĩ khác “Không được coi thường đứa bé này, phải dạy dỗ nó cẩn thận”. Lúc đó tuy không hiểu thầy Vô Cực giảng gì dù chỉ một chữ, tôi vẫn thấy tha thiết và nhiệt thành như thể tôi đang hiểu một thứ gì đó mà không thể bày tỏ bằng lời.

Khi tôi được 19 tuổi, bạn tôi nhiều đứa đã đậu kỳ thi hương. Khi nghe các bạn thúc tôi đi thi, thầy Vân Cư đã khuyến khích tôi tu đạo và nổ lực tham thiền. Thầy kể tôi nghe về hành trạng của rất nhiều cao tăng thời trước, và đưa cho tôi quyển Cao Tăng Truyện. Sau khi đọc xong Trung Phong TruyệnCao Tăng Truyện, tôi cảm động “Đây chính là điều mình muốn làm”. Rồi tôi quyết định hiến đời mình cho đạo Phật từ đó, và xin Đại sư thí phát.

Gạt bỏ thế sự và việc học hành, tôi tập trung cho việc nghiên cứu thiền nhưng chẳng đến đâu. Tôi bắt đầu chuyên tâm niệm danh hiệu đức A Di Đà ngày đêm không gián đoạn. Không bao lâu, tôi nằm thấy ngài hiện ra trong giấc mộng. Ngài ngồi trên trời cao và hướng về phía mặt trời lặn, gương mặt từ bi linh động trong sáng. Tôi phục dưới chân ngài với tâm trạng khó tả. Khi tôi vừa nghĩ “Vậy còn Bồ tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí ở đâu”, liền thấy chư vị hiện ra. Nhờ giấc mơ đó tôi càng tin tưởng và nổ lực tiến tu. Tôi tin, việc tu hành của mình sẽ có kết quả tốt đẹp.

Mùa động năm ấy, tự viện chúng tôi mời thầy Vô Cực đến giảng Hoa Nghiêm. Khi giảng đến Thập Huyền Môn, hải ấn xum la thường trụ xứ, tôi bỗng nhận ra yếu chỉ pháp giới viên dung vô tận. Quá hăm mộ ngài Thanh Lương, người đã sáng lập tông Hoa Nghiêm, tôi lấy đó làm danh hiệu của mình, và lấy tên tự là Trừng Ấn.

Tôi trình bày chỗ nhận của mình lên thầy Vô Cực, thầy nói “Vậy là con muốn theo con đường Hoa Nghiêm. Nhưng con có biết vì sao ngài lại lấy tên là Thanh Lương? Vì ngài thường ở trên núi Thanh Lương. Mùa hè thì mát, mùa đông thì băng giá”. Từ đó, tôi cứ thấy thế giới kỳ diệu của băng tuyết hiện ra trước mắt. Tôi quyết tâm đến trụ ở ngọn núi ấy. Không gì trên thế gian có thể mê hoặc tôi được nữa. Cái khao khát lìa bỏ thế giới này không ngừng sống dậy trong tôi.

Khi tôi 20 tuổi thì Đại sư qua đời. Trước khi thị tịch ngài gọi môn chúng lại và nói “Ta đã 83 tuổi, chẳng bao lâu sẽ rời bỏ cõi đời này. Ta có khoảng 80 đệ tử nhưng kẻ nối pháp của ta chính là Hám Sơn. Sau khi ta đi các con phải nghe lệnh chú ấy. Đừng lơ là mệnh lệnh chỉ vì vấn đề tuổi tác”. Ngài cho họp tất cả tăng chúng, tập trung niệm danh hiệu A Di Đà trong suốt năm ngày liền. Tràng hạt trong tay, ngài ngồi kiết già, bình tĩnh niệm danh hiệu Di Đà rồi thoát. Không lâu sau, căn phòng ấy bị cháy rụi, như thể báo một điềm gì đó cho các môn đồ.

Vào tháng 10 năm đó, thầy Vân Cốc mở Thiền hội. Nhờ sự tiến cử của thầy, tôi được nhập hội. Thoạt đầu tôi không biết phải dụng công thế nào và rất khổ sở với sự vô minh của mình. Sau khi đốt hương dâng thầy, xin thầy chỉ dạy, tôi thiền định suốt ba tháng liền. Suốt thời kỳ này, tôi không chú ý tới bất cứ ai trong hội hoặc bất cứ gì xảy ra quanh tôi. Phần tiếp theo, nói về quá trình tu tập thiền định và những cảnh giới tự tâmĐại sư Hám Sơn đã chứng nhập, thuộc phần công phu tu chứng, nên không trích ra đây.

Năm 40 tuổi, tôi bắt đầu đọc Đại tạng, giải kinh Pháp Hoa và luận Đại Thừa Khởi Tín. Từ ngày rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã có ý định về thăm song thân, nhưng lại sợ những hệ lụy thế gian làm mờ mắt, nên hơi do dự. Nhưng trong khi thiền định, tôi đã làm bài kệ :

Ngày ngày sóng nổi ngập thái không
Chim cá cùng bơi một kính trong
Đêm qua trăng bỗng rụng bên trời
Sáng bừng như lẫn ngọc ly long

Vì thế, tôi gọi thị giả vào và bảo với ông ấy tôi đã có thể về quê thăm cha mẹ.

Ở quận nhà, chùa Báo Ân từ lâu vẫn muốn xin trọn một bộ Đại Tạng. Tôi đi Kinh Sư thỉnh kinh và về đến chùa Báo Ân tháng mười một. Trước khi bộ Đại tạng về, trong chùa phát sáng mấy ngày. Kinh về đến nơi thì ánh sáng biến hình như một chiếc cầu vồng trải từ trời xuống đất. Người đến xem, mỗi ngày có đến vạn người.

Khi mẹ hay tin tôi về. Bà cho người đến hỏi khi nào tôi về thăm nhà. Tôi trả lời “Triều đình phái con đi hộ tống kinh, không phải để về nhà. Nhưng nếu mẹ có thể tiếp con một cách vui vẻ không sầu thương như con chưa từng rời đi, thì con sẽ về nhà hai đêm”. Nghe vậy, bà nói “Cuộc gặp gỡ này giống như vừa tìm lại được người nhà trong một kiếp khác, làm sao mụ có thì giờ để khổ đau. Mụ rất hài lòng nếu gặp được con mình dù chỉ tích tắc. Hai đêm là quá nhiều so với sự mong mỏi của mụ”. Khi tôi về nhà, mẹ rất vui. Thật là ngạc nhiên!

Buổi chiều, họ hàng đến thăm, một người hỏi “Thầy đến bằng thuyền hay đường bộ?”. Mẹ lập tức trả lời “Nói vậy là ngụ ý gì?”. “Điều tôi thực sự muốn biết là thầy ấy từ đâu về”. Bà trả lời “Từ cái không về với chúng ta”.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà nói vậy. Chẳng lạ gì bà cụ cho tôi đi tu. 

Rồi tôi hỏi mẹ : Từ khi con rời khỏi nhà, mẹ có nghĩ đến con?

Bà đáp : Dĩ nhiên là có, làm sao không được.

- Vậy mẹ làm gì để khuây khỏa?

- Thoạt đầu mụ không biết làm gì. Rồi nghe người ta nói con ở Ngũ Đài Sơn, mụ hỏi một thầy tăng “Nơi đó ở đâu?”, thầy bảo “Ngay dưới sao Bắc đẩu”. Mụ đảnh lễ sao bắc đẩu và niệm danh hiệu Bồ tát. Mụ thấy khuây khỏa và không còn nghĩ tới con nữa. Mụ nghĩ con đã chết. Mụ thấy không còn khổ não, không còn nghĩ đến con. Bây giờ mụ gặp con như thể trong một kiếp khác.

Sáng hôm sau, tôi đi thăm mộ tổ tiên và chọn địa điểm làm mộ cho song thân. Lúc đó cha tôi đã 80 tuổi. Tôi nói đùa “Hôm nay con đào huyệt cho cha, giúp cha không phải trở lại thế gian này nữa”. Vừa nói tôi vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ tôi giựt cuốc khỏi tay tôi và nói “Để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ”. Rồi bà bắt đầu đào huyệt một cách vui vẻ.

Tôi từ giã gia đình sau đó ba hôm. Khi tiễn đưa, mẹ tôi vẫn vui vẻ. Đến lúc đó, tôi mới hiểu, bà là một người rất khác thường.

(Phần tự thuật của Đại sư Hám Sơn, lược trích trong Thiền Đạo Tu Tập của Chang Chen Chi)  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12478)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9593)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10156)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20467)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11690)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46772)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12138)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11803)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17902)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10193)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17862)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18252)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17083)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11511)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11673)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19814)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7199)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9232)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14903)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18697)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15312)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17350)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29826)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31602)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32860)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30862)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32646)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39397)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40511)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50211)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16106)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25500)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17842)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33378)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39692)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44062)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23117)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44123)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42944)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44445)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39267)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19293)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35719)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24257)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20429)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19033)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18959)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19355)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20349)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15603)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36368)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20319)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31580)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15968)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35967)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34423)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19522)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18980)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22964)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20220)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant