Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đại sư Hám Sơn

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10524)
04. Đại sư Hám Sơn

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ĐẠI SƯ HÁM SƠN  

Mình sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những khoảng đường riêng, như bị một loại định mệnh chi phối. Một loại định mệnh không do ông trời sắp đặt, không do thượng đế ban cho, mà do hành động và những thói quen mình đã gầy ra trong quá khứ.

Những thói quen, mà cái quả của nó đã thành định nghiệp, tức NHÂN đã có, DUYÊN đã đủ, thì mình không thể thay đổi gì nữa.[01] Đại sư Hám Sơn ra đời với một điềm mộng : Bồ tát Quán Thế Âm mang đến một đứa trẻ, mẹ Sư ôm vào lòng và sinh ra Sư. Cội từ bi đã khai hoa nở nhụy. Đứa con của lòng từ, ắt hẳn phải theo con đường từ bi hỉ xả. Một tuổi, Đại sư đau nặng, bà phải phát nguyện đưa con vào chùa. Định nghiệp tu hành, con đường của bậc Long tượng, lần nữa lại được xác định.

Tôi sinh ra ở Toàn Tiêu thuộc Nam Kinh. Mẹ tôi là một Phật tử mộ đạo, suốt đời bà thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Một hôm bà nằm mộng thấy Bồ tát dắt đến một đứa bé, bà ôm vào lòng, sau đó sinh ra tôi. Nhưng được một tuổi thì tôi đau nặng. Sợ con qua không khỏi, bà cầu Quán Thế Âm và hứa, nếu tôi hết bệnh bà sẽ cho tôi vào chùa làm tăng. Vì thế, khi tôi hồi phục, bà ghi tên tôi vào chùa Trường Thọ.

Liễu thoát sinh tử là một trong những đích nhắm của người tu Phật. Đó là việc đã được huân tập từ bao kiếp trước, nên trong cái tuổi đáng nhẽ chỉ biết chơi đùa vô tư vòi vĩnh mẹ cha, Sư lại chú tâm vào việc sống chết. Sống từ đâu có và chết sẽ đi về đâu? 

Năm lên 7, mẹ cho tôi đi học. Một lần đi về, thấy cậu nằm bất động trên giường, tôi hỏi thì mẹ trả lời “Cậu ngủ”. Nhưng tôi gọi cậu mấy lần, cậu vẫn nằm yên. Còn mợ tôi thì gào thét “Trời ơi! mình đi đâu rồi hở mình?”. Bàng hoàng, tôi hỏi “Cậu nằm đó sao mợ nói đi đâu?” Lúc đó mẹ mới nói thật “Cậu con chết rồi”. Tôi hỏi bà “Chết đi về đâu?”. Bà lắc đầu. Từ đó câu hỏi ấy bám chặt vào tâm trí tôi.

Ít lâu sau, mợ tôi sinh được một em bé. Lần đầu tiên đến thăm, tôi hỏi “Đứa bé này vào bụng mợ bằng cách nào?”. Mẹ tôi cười “Vớ vẩn! Thế mày vào bụng mẹ bằng cách nào?”. Sanh tử trở thành mối nghi rất lớn đè nặng tâm trí tôi.

Tình thương của mẹ đối với con là vô bờ. Nhưng cách thể hiện thì không như nhau. Có thứ khiến con trẻ hư hoại bê tha. Có thứ khiến con trẻ đắm chìm trong tình cảm thường tình. Có thứ khiến con trẻ vững vàng rắn rỏi. Túc duyên sâu dày, căn khí thượng thừa sẵn đủ, nên mẹ là hiện thân trợ cho căn duyên đời trước có điều kiện đâm chồi, Tổ thầy là hiện thân trợ cho căn khí thượng thừa được mãi xum xoe, kết lá ra hoa, che mát chúng hữu tình. 

Năm tôi lên 8, để tiện cho việc học hành, Tôi được gởi qua ở nhờ nhà một người bà con cách đó một con sông. Mẹ tôi cho tôi về nhà thăm bà một tháng một lần. Sau ngày nghỉ thường lệ, tôi không muốn trở lại trường và nói với bà “Con không muốn xa mẹ”. Bà nổi xung thiên, đánh và đuổi tôi ra tận bờ sông. Nhưng tới đó, tôi vẫn bám chặt lấy bà. Đang cơn giận, bà túm tóc tôi ném xuống sông rồi bỏ đi thẳng. Khi tôi thoát chết về được đến nhà, bà hét lớn “Để cái đồ vô tích sự đó sống làm gì, thà để nó chết đi còn hơn”. Bà lại đánh và đuổi tôi. Tôi thấy mẹ quá nghiêm khắc và tàn nhẫn, nên quyết từ rày về sau không về nhà nữa. 

Sau này tôi mới biết, bà đã nhiều lần đứng khóc ở bờ sông và nói với ngoại ‘Con phải làm cho nó vượt qua cái tính đa cảm thường tình, để nó có thể học hành nghiêm túc”. 

Năm lên 9, tôi được gởi vào chùa đi học. Khi nghe tụng đến phẩm Phổ Môn, biết Quán Thế Âm có thể cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau, tôi rất phấn khích. Một lần theo mẹ đến chùa lễ tạ Bồ tát, tôi hỏi “Mẹ có biết kinh của Bồ tát Quán Thế Âm không?”. Bà lắc đầu. Tôi lập tức tụng cho bà nghe. Giọng tôi lúc đó cứ như một ông tăng già, khiến bà thích thú vô cùng. Bà hỏi “Con đã học ở đâu?”. Tôi trả lời là tôi đã mượn kinh về tự nghiên cứu tụng lấy. 

Năm tôi lên 10, bị mẹ ép học quá, tôi buồn lắm. Một lần hỏi bà : Vì sao con phải đi học?

- Để có được một địa vị trong xã hội
- Vậy sau này con được địa vị gì?
- Bắt đầu có thể chỉ là một địa vị thấp. Nhưng có thể sau đó sẽ lên chức tể tướng. 
- Cho là con có thể trở thành tể tướng đi, nhưng sau đó thì sao?
- Người ta chỉ có thể lên tới đó mà thôi. 
- Nhưng làm một công chức cao cấp thì có ích gì? Làm việc cực khổ cả đời để chẳng được gì thì thật vô ích. Con muốn làm cái gì đó có giá trị vĩnh hằng.
- Trời đất! Một đứa con vô tích sự như mày, thì chắc chỉ làm được một ông tăng du phương mà thôi.
- Làm một tăng du phương thì có ích gì?
- Tăng là một đệ tử Phật. Ông muốn đi đâu trên thế gian này cũng được. Ông là một người tự do thật sự. Ở đâu, thiên hạ cũng cúng dườngphục dịch ông. 
Tôi thấy rất hứng khởi với việc đó, nên nói : Vậy thì hay lắm. Con muốn làm một ông tăng.
Bà lắc đầu : Ta e con không có tài cán đó.
Thấy tôi ngạc nhiên, bà giải thích : Trên thế gian này có rất nhiều trạng nguyên, nhưng Phật Tổ thì rất hiếm. Hàng tăng mà mẹ Đại sư muốn nói chính là hàng có chí nguyện làm Phật làm Tổ, lấy định tuệ nuôi sống tuệ mạng của mình. 

Nghe vậy tôi quả quyết : Con có khả năng đó, chỉ sợ mẹ không cho con đi.

Bà hứa : Nếu con có khả năng, ta sẽ cho con theo đường của con.

Tôi nuôi trong lòng lời hứa đó của mẹ.
Năm tôi 11 tuổi, thấy gần nhà có vài người đầu đội nón lá, trên vai chất đầy vật dụng, tôi liền hỏi mẹ : Mấy người đó là ai?

- Là những tăng sĩ du phương

Nghe vậy, tôi rất thích. Tôi quan sát kỹ mọi thứ. Họ đặt gánh xuống, rồi nghỉ ở một gốc cây bên đường. Một người hỏi mẹ “Có thể kiếm đâu ra thức ăn thưa bà?”. Mẹ trả lời “Xin chờ, tôi sẽ nấu cơm cúng dường”. Rồi bà phục dịch các tăng sĩ với tất cả sự tôn kính của mình.

Ăn xong, các tăng nhân quảy gánh lên vai. Họ dơ một tay lên chào từ biệt và định nói một cái gì đó. Nhưng mẹ vội nói “Xin đừng cám ơn”. Tôi thì không mấy vừa lòng về thái độ từ biệt của mấy ông tăng, tôi nói với mẹ “Mấy ông tăng này quá vô lễ. Không chào hỏi lấy một lời mà đã bỏ đi”. Bà giải thích “Nếu họ cảm ơn, ta sẽ được ít phước hơn với việc cúng dường của mình”. Lúc đó, tôi càng thấy ưu thế của hàng tu sĩ. Cuộc gặp gỡ khiến quyết định làm tăng của tôi càng mạnh mẽ. Nhưng trở ngại duy nhất của tôi lúc này là tôi chưa có cơ hội.

Rồi thời cơ cũng đến. Năm tôi 12 tuổi, nghe ở chùa Báo Ân có một cao tăng tên là Tây Lâm, tôi thưa với cha mình muốn đến đó. Cha không cho đi, nhưng mẹ lý luận “Tốt hơn, nên để cho con theo ý nguyện của nó. Giúp nó thực hiện hơn là ngăn cản”. Và thế là tôi được gởi đến chùa Báo Ân.

Ngay khi thấy tôi, Đại sư liền nói “Thằng bé này không phải thường. Nếu để nó trở thành một ông tăng bình thường thì thật là phí”. Rồi thầy dẫn tôi đến tự viện. Lúc ấy thầy Vô Cực đang thuyết pháp. Thầy Triệu Văn Túc rất thích khi trông thấy tôi, ngài nói “Thằng nhỏ sau này sẽ thành bậc thầy của trời người”. Rồi ngài hỏi tôi “Con thích làm quan hay làm Phật?” Tôi trả lời “Dĩ nhiên là làm Phật”. Ngài cười và quay lại nói với những tăng sĩ khác “Không được coi thường đứa bé này, phải dạy dỗ nó cẩn thận”. Lúc đó tuy không hiểu thầy Vô Cực giảng gì dù chỉ một chữ, tôi vẫn thấy tha thiết và nhiệt thành như thể tôi đang hiểu một thứ gì đó mà không thể bày tỏ bằng lời.

Khi tôi được 19 tuổi, bạn tôi nhiều đứa đã đậu kỳ thi hương. Khi nghe các bạn thúc tôi đi thi, thầy Vân Cư đã khuyến khích tôi tu đạo và nổ lực tham thiền. Thầy kể tôi nghe về hành trạng của rất nhiều cao tăng thời trước, và đưa cho tôi quyển Cao Tăng Truyện. Sau khi đọc xong Trung Phong TruyệnCao Tăng Truyện, tôi cảm động “Đây chính là điều mình muốn làm”. Rồi tôi quyết định hiến đời mình cho đạo Phật từ đó, và xin Đại sư thí phát.

Gạt bỏ thế sự và việc học hành, tôi tập trung cho việc nghiên cứu thiền nhưng chẳng đến đâu. Tôi bắt đầu chuyên tâm niệm danh hiệu đức A Di Đà ngày đêm không gián đoạn. Không bao lâu, tôi nằm thấy ngài hiện ra trong giấc mộng. Ngài ngồi trên trời cao và hướng về phía mặt trời lặn, gương mặt từ bi linh động trong sáng. Tôi phục dưới chân ngài với tâm trạng khó tả. Khi tôi vừa nghĩ “Vậy còn Bồ tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí ở đâu”, liền thấy chư vị hiện ra. Nhờ giấc mơ đó tôi càng tin tưởng và nổ lực tiến tu. Tôi tin, việc tu hành của mình sẽ có kết quả tốt đẹp.

Mùa động năm ấy, tự viện chúng tôi mời thầy Vô Cực đến giảng Hoa Nghiêm. Khi giảng đến Thập Huyền Môn, hải ấn xum la thường trụ xứ, tôi bỗng nhận ra yếu chỉ pháp giới viên dung vô tận. Quá hăm mộ ngài Thanh Lương, người đã sáng lập tông Hoa Nghiêm, tôi lấy đó làm danh hiệu của mình, và lấy tên tự là Trừng Ấn.

Tôi trình bày chỗ nhận của mình lên thầy Vô Cực, thầy nói “Vậy là con muốn theo con đường Hoa Nghiêm. Nhưng con có biết vì sao ngài lại lấy tên là Thanh Lương? Vì ngài thường ở trên núi Thanh Lương. Mùa hè thì mát, mùa đông thì băng giá”. Từ đó, tôi cứ thấy thế giới kỳ diệu của băng tuyết hiện ra trước mắt. Tôi quyết tâm đến trụ ở ngọn núi ấy. Không gì trên thế gian có thể mê hoặc tôi được nữa. Cái khao khát lìa bỏ thế giới này không ngừng sống dậy trong tôi.

Khi tôi 20 tuổi thì Đại sư qua đời. Trước khi thị tịch ngài gọi môn chúng lại và nói “Ta đã 83 tuổi, chẳng bao lâu sẽ rời bỏ cõi đời này. Ta có khoảng 80 đệ tử nhưng kẻ nối pháp của ta chính là Hám Sơn. Sau khi ta đi các con phải nghe lệnh chú ấy. Đừng lơ là mệnh lệnh chỉ vì vấn đề tuổi tác”. Ngài cho họp tất cả tăng chúng, tập trung niệm danh hiệu A Di Đà trong suốt năm ngày liền. Tràng hạt trong tay, ngài ngồi kiết già, bình tĩnh niệm danh hiệu Di Đà rồi thoát. Không lâu sau, căn phòng ấy bị cháy rụi, như thể báo một điềm gì đó cho các môn đồ.

Vào tháng 10 năm đó, thầy Vân Cốc mở Thiền hội. Nhờ sự tiến cử của thầy, tôi được nhập hội. Thoạt đầu tôi không biết phải dụng công thế nào và rất khổ sở với sự vô minh của mình. Sau khi đốt hương dâng thầy, xin thầy chỉ dạy, tôi thiền định suốt ba tháng liền. Suốt thời kỳ này, tôi không chú ý tới bất cứ ai trong hội hoặc bất cứ gì xảy ra quanh tôi. Phần tiếp theo, nói về quá trình tu tập thiền định và những cảnh giới tự tâmĐại sư Hám Sơn đã chứng nhập, thuộc phần công phu tu chứng, nên không trích ra đây.

Năm 40 tuổi, tôi bắt đầu đọc Đại tạng, giải kinh Pháp Hoa và luận Đại Thừa Khởi Tín. Từ ngày rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã có ý định về thăm song thân, nhưng lại sợ những hệ lụy thế gian làm mờ mắt, nên hơi do dự. Nhưng trong khi thiền định, tôi đã làm bài kệ :

Ngày ngày sóng nổi ngập thái không
Chim cá cùng bơi một kính trong
Đêm qua trăng bỗng rụng bên trời
Sáng bừng như lẫn ngọc ly long

Vì thế, tôi gọi thị giả vào và bảo với ông ấy tôi đã có thể về quê thăm cha mẹ.

Ở quận nhà, chùa Báo Ân từ lâu vẫn muốn xin trọn một bộ Đại Tạng. Tôi đi Kinh Sư thỉnh kinh và về đến chùa Báo Ân tháng mười một. Trước khi bộ Đại tạng về, trong chùa phát sáng mấy ngày. Kinh về đến nơi thì ánh sáng biến hình như một chiếc cầu vồng trải từ trời xuống đất. Người đến xem, mỗi ngày có đến vạn người.

Khi mẹ hay tin tôi về. Bà cho người đến hỏi khi nào tôi về thăm nhà. Tôi trả lời “Triều đình phái con đi hộ tống kinh, không phải để về nhà. Nhưng nếu mẹ có thể tiếp con một cách vui vẻ không sầu thương như con chưa từng rời đi, thì con sẽ về nhà hai đêm”. Nghe vậy, bà nói “Cuộc gặp gỡ này giống như vừa tìm lại được người nhà trong một kiếp khác, làm sao mụ có thì giờ để khổ đau. Mụ rất hài lòng nếu gặp được con mình dù chỉ tích tắc. Hai đêm là quá nhiều so với sự mong mỏi của mụ”. Khi tôi về nhà, mẹ rất vui. Thật là ngạc nhiên!

Buổi chiều, họ hàng đến thăm, một người hỏi “Thầy đến bằng thuyền hay đường bộ?”. Mẹ lập tức trả lời “Nói vậy là ngụ ý gì?”. “Điều tôi thực sự muốn biết là thầy ấy từ đâu về”. Bà trả lời “Từ cái không về với chúng ta”.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà nói vậy. Chẳng lạ gì bà cụ cho tôi đi tu. 

Rồi tôi hỏi mẹ : Từ khi con rời khỏi nhà, mẹ có nghĩ đến con?

Bà đáp : Dĩ nhiên là có, làm sao không được.

- Vậy mẹ làm gì để khuây khỏa?

- Thoạt đầu mụ không biết làm gì. Rồi nghe người ta nói con ở Ngũ Đài Sơn, mụ hỏi một thầy tăng “Nơi đó ở đâu?”, thầy bảo “Ngay dưới sao Bắc đẩu”. Mụ đảnh lễ sao bắc đẩu và niệm danh hiệu Bồ tát. Mụ thấy khuây khỏa và không còn nghĩ tới con nữa. Mụ nghĩ con đã chết. Mụ thấy không còn khổ não, không còn nghĩ đến con. Bây giờ mụ gặp con như thể trong một kiếp khác.

Sáng hôm sau, tôi đi thăm mộ tổ tiên và chọn địa điểm làm mộ cho song thân. Lúc đó cha tôi đã 80 tuổi. Tôi nói đùa “Hôm nay con đào huyệt cho cha, giúp cha không phải trở lại thế gian này nữa”. Vừa nói tôi vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ tôi giựt cuốc khỏi tay tôi và nói “Để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ”. Rồi bà bắt đầu đào huyệt một cách vui vẻ.

Tôi từ giã gia đình sau đó ba hôm. Khi tiễn đưa, mẹ tôi vẫn vui vẻ. Đến lúc đó, tôi mới hiểu, bà là một người rất khác thường.

(Phần tự thuật của Đại sư Hám Sơn, lược trích trong Thiền Đạo Tu Tập của Chang Chen Chi)  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 94)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 340)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
(Xem: 549)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 723)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 726)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 764)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 885)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 859)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 980)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 778)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1105)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1315)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1053)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1333)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1192)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1143)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1362)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1652)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1456)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1571)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2461)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1993)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3092)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2279)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1790)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2650)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2236)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2605)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12320)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3010)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6743)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4355)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2616)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3277)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2587)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3108)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2903)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3569)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3764)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3238)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3077)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4351)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6062)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5393)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5628)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3162)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5266)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2355)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2340)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2654)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2479)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3352)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5076)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4898)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3987)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5000)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4745)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4539)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3935)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant