Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Thơ Trần Nhân Tông

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 9408)
02. Thơ Trần Nhân Tông

TRẦN NHÂN TÔNG

CON NGƯỜITÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát 
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 1999


PHẦN II 
TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNG 

 
THƠ TRẦN NHÂN TÔNG 

TỨC SỰ 

Xong múa Giá chi thử áo xuân, 
Hôm nay huống gặp tiết thanh minh
Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc 
Phong tục từ xưa của Việt Nam

TIỄN SỨ BẮC LÝ TRỌNG TÂN 
TIÊU PHƯƠNG MAI 

Thăm thẳm Linh Trì ấm tiệc đưa 
Người về khôn cách gió xuân ngừa. 
Nào hay sao sứ hai ngôi phúc, 
Sáng rọi trời Nam mây tối bưa. 

TIỄN SỨ BẮC MA HỢP 
KIỀU NGUYÊN LÃNG 

Trời nam, sao sứ rọi hai ngôi 
Dẫn lối ba vòng đêm sáng soi 
Bên ấy ơn sâu tình dễ cảm 
Nơi đây tục bạc lễ thẹn tồi 
Mù xông cờ tiết thân mừng khỏe 
Roi vút gió xuân ngựa kết đôi 
Trung thống vạc lời xin hãy nhớ 
Nỗi lo đất nước khỏi nung sôi 

HỌA THƠ KIỀU NGUYÊN LÃNG 

Non nam hành lý nhẹ mây tưng 
Xuân đến cành mai mới mấy bông 
Khắp thấy cùng thương thiên tử đức 
Sống không giúp thế trượng phu buồn 
Ngựa xông sương tuyết đầu còn ngoái 
Mắt ngắm non sông xe chút ngừng 
Sông Nhị ngày mai mờ khói nước 
Rượu đào tươi mát rửa lòng trong 

HOA MAI SỚM 

Vàng điểm tua hoa năm cánh tròn 
San hô chìm bóng vẩy phô tuôn 
Ba đông cành trắng hoa khoe trước 
Một nén hương xuân nhánh hãy còn 
Cam lộ ngát thơm say bướm tỉnh 
Dạ quang tựa nước khát chim buồn 
Hằng nga nếu biết đây hoa đẹp 
Quế lạnh cung Thiềm thôi ở luôn 

Ngại rét năm ngày cửa biếng ra 
Gió xuân trước đã đến cây già 
Bóng giăng mặt nước băng vừa vỡ 
Hoa trĩu đầu cành ấm chửa pha 
Xóm núi trăng chìm lời hát Việt 
Ải quan mây đẫm tiếng tiêu Hồ 
Một cành lạc tới giấc mơ bạn 
Tỉnh dậy tặng người chẳng nỡ đưa 

CẢNH XUÂN 

Chim hót nhởn nhơ, hoa liễu dày, 
Bóng thềm nhà vẽ mây chiều bay 
Chuyện đời khách đến thôi không hỏi 
Cùng tựa lan can ngắm núi mây. 

DỰ YẾN VỚI VĂN TÚC VƯƠNG 

Chân rùa bóc đỏ mọng 
Yên ngựa nướng vàng thơm 
Sơn tăng giữ giới sạch 
Cùng ngồi chẳng cùng ăn 

CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM 

Bát ngát Thần quang gợi tịch u 
Trời trăng ôm cởi đến ngao du 
Lâu đài một tá bày tranh vẽ 
Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ 
Lắm đỗi thói đời mây thương cẩu 
Đâu hay tùng cỗi trắng đầu sư 
Thắp hương lễ Phật trừ đôi việc 
Hết thảy suy tư mặc bỏ lờ. 

10 

ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH 

Xông hết nghìn hương thơm ngát nhà, 
Mới dâng dòng nước mát đâu xa 
Cửa chùa dưới bóng đa già khép 
Đầu tiếng ve thu ý đậm đà 

NGẮM CẢNH CHIỀU THIÊN TRƯỜNG 

Thôn trước thôn sau tựa khói nhòa 
Nửa không nửa có mé chiều sa 
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết, 
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà. 

12 

TRÊN ĐƯỜNG TÂY CHINH 

Hoa sóng tung lên buồm gấm bay 
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay 
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến 
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây 
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ 
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy 
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến 
Vội vã nam nhi chi lắm vậy. 

13 

TRĂNG 

Đầy sách, giường song chếch bóng đèn 
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm 
Tiếng chày thức dậy đâu hay biết 
Hoa mộc trên cành trăng mới lên 

14 

LÊN NÚI BẢO ĐÀI 

Đất vắng đài thêm cổ 
Ngày qua xuân chửa nồng. 
Gần xa, mây núi cuốn, 
Râm nắng, ngõ hoa lồng. 
Muôn việc nước theo nước, 
Trăm năm lòng bảo lòng 
Tựa hiên nâng sáo ngọc, 
Ngực áo, đầy trăng trong. 

15 

CÂY MAI 

Sắt đá gan lì khinh tuyết sớm 
Khăn xiêm mộc mạc gió đông luồn 
Trần gian kiệm ước Hán Văn Đế 
Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông

16 

ĐÊM MƯỜI MỘT THÁNG HAI 

Rượu chút sầu vơi, vị đậm đà
Giường rồng chiếu trúc trải yên ra 
Cả trời tựa nước, trăng ngày sáng, 
Hoa phủ đầy song xuân mãi mơ 

17 

NIỀM OÁN HẬN CỦA NGƯỜI KHUÊ PHỤ 

Ngủ dậy vén rèm, hồng thấy rơi, 
Hoàng ly không hót giận xuân rồi. 
Lầu tây vô cớ vầng dương lặn 
Bóng ngã về đông hoa lẫn chồi 

18 

CẢNH CHIỀU Ở CHÂU LẠNG 

Chùa cổ đìu hiu khuất khói mờ 
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa 
Nước quang non lặng vờn âu trắng 
Gió lặng mây đùa cây đỏ thưa. 

19 

XUÂN MUỘN 

Tuổi trẻ sao từng hiểu sắc không 
Cả xuân hoa nở ngất ngây lòng 
Đến nay đành rõ mặt xuân ấy 
Nệm cỏ giường thiền ngắm rụng hồng. 

20 

CHIỀU THU Ở VŨ LÂM 

Lòng khe vắt ngược bóng cầu hoa 
Hắt sáng ngoài khe, vệt nắng tà 
Vắng vẻ nghìn non, rơi lá đỏ 
Như mơ mây đẫm tiếng chuông xa 

21 

NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG 

Hùm gấu nghiêm nghìn cửa. 
Áo mũ bảy phẩm đầy. 
Lính bạc đầu còn đó, 
Nguyên Phong mãi kể say 

22 

BUỔI SỚM MÙA XUÂN 

Ngủ dậy, mở cánh cửa, 
Xuân về đã chẳng hay! 
Bươm bướm một đôi trắng 
Phơi phới nhắm hoa bay 

23 

TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN 

Cảnh hồ Động thiên nọ, 
Hoa cỏ kém vẻ xuân. 
Thượng đế thương hiu quạnh 
Chuông Thái thanh bỗng ngân. 

24 

PHỦ THIÊN TRƯỜNG 

Rậm lục thưa hồng thêm quạnh hiu 
Mây quang mưa tạnh ngấn bùn tiêu 
Nhà trai giảng đoạn sư về viện 
Quán bến canh đầu cầu nguyệt treo 
Ba chục cung tiên giường tối đặt 
Tám nghìn bóng tháp triều xuân reo 
Phố minh phong cảnh y như cũ 
Phảng phất hình cha mộng thấy nhiều 

25 

BÀI MINH ĐỀ TRÚC NÔ 

Ruột rỗng, tuyết giải 
Đốt cứng, sương phơi 
Mượn ngươi làm tớ, 
E trái tính trời. 

 26 

MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG 

Ai buộc mà đi giải thoát tìm? 
Không phàm sao phải kiếm thần tiên 
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải. 
Như cũ am mây một sập thiền 

27 

Phải trái tâm theo hoa sớm rơi 
Lợi danh lòng lạnh mưa đêm rồi 
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng 
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi. 

28 

TẶNG SỨ BẮC LÝ TƯ DIỄN 

Ơn Hán tràn trề mưa móc tuôn 
Chiếu son phượng ngậm khỏi mây hồng 
Khí hòa góc đất đều lan tới 
Bụi chiến sông trời rửa sạch trơn 
Thảy bảo thư vua mười lối viết 
Còn hơn đàn Thuấn năm dây đờn 
Đất trời thương hết không nam bắc 
Sấm sét sao lolại phải bươn 

29 

CA NGỢI THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG 

Nhìn lên càng cao 
Dùi càng bền cứng 
Chợt ở phía sau 
Thấy liền trước đứng 
Cái đó gọi là 
Thiền Thượng sĩ vững 

30 

ĐỀ CHÙA THÔN HƯƠNG CỔ CHÂU 

Số đời một màn kéo, 
Tình người đôi mắt ngân. 
Cung ma chật hẹp lắm, 
Cõi Phật khôn xiết xuân. 

31 

KỆ THỊ TỊCH 

Hết thảy pháp không sinh 
Hết thảy pháp không diệt 
Nếu hay hiểu như vầy 
Chư Phật thường trước mặt 
Đến đi sao có đây 

32 

THÂN NHƯ 

Thân như hơi thở vào ra mũi 
Thế tựa gió luồn mây núi xa 
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng 
Đừng để tầm thường xuân luống qua 

33 

NGƯƠI NÊN NHỚ 

Cối kê việc cũ ngươi nên nhớ, 
Hoan, Ái đang còn chục vạn quân 

34 

TỨC SỰ 

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, 
Non sông nghìn thuở vững âu vàng. 

35 

HỌA THƠ LÝ TƯ DIỄN 

Tự xét không tài thẹn được đất 
Chỉ vì nhiều bệnh thiếu chầu trời

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10606)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11082)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9580)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10451)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12074)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9727)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10238)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10258)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19189)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14644)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24337)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15392)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10357)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21463)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10260)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19315)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11387)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18741)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9292)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15940)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25698)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37906)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19645)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18726)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14301)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20145)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9531)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14393)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35621)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10666)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19749)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23235)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13390)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20281)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10627)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9653)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9223)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8518)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9777)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11225)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8325)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14110)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9939)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15244)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12598)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11346)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12103)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11079)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36451)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8990)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17295)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10493)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12218)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13662)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9188)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24866)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11670)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10353)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14541)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13031)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant