Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngồi ThiềnQuán Hơi Thở

20 Tháng Ba 201400:00(Xem: 12242)
Ngồi Thiền Và Quán Hơi Thở

Ngồi ThiềnQuán Hơi Thở


Toàn Không

 

ngoi_thienI). Chuẩn bị:

1- Về thân: Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ; khi ngồi thiền, thân thể, quần áo phải sạch sẽ.

2- Về tinh thần: Để dễ tập trung vào việc thiền, người hành thiền phải dứt các lo lắng ràng buộc với công việc, chấm dứt các tham muốn, không còn các sự lo lắng, giận hờn, ghen tị v.v… nghĩa là muốn hành thiền mau tiến bộ phải tránh tham sân, phải bớt tiếp xúc với sáu trần là sắc đẹp, thanh hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu, pháp tưởng nhớ. Cũng cần phải tin pháp môn hành trì, tin thiện tri thức, tin chính mình có đủ khả năng, tất cả không một chút nghi ngờ về các điều nêu trên, gọi là có chính tín.

3- Vật dụng: Tọa cụ để ngồi, có thể dùng môt cái chăn mền mỏng gấp làm tư, một cái gối bằng bông dầy mỏng tùy ý. Nếu nền ngồi có thảm, chỉ cần một cái gối là đủ.

 

II). Cách ngồi:

 Chăn mền: gấp làm tư trải xuống, để gối trên mền ngay ngắn, ngồi thế nào để chân sẽ không đụng gối.

1- Ngồi bán kết già: Để chân trái trên đùi phải hay chân phải trên đùi trái, bàn chân nằm ngửa bằng với đùi (nếu không thể để trên đùi, để trên bắp chân). Chân kia nằm ngửa phiá dưới, bằng đùi kia (hay giữa đùi và bắp chân).

2- Ngồi toàn kết già: Cũng giống như ngồi bán kết già nêu trên, nhưng phải kéo bàn chân kia lên nằm ngửa trên đùi và bằng đùi kia(cách ngồi này rất khó, chỉ dễ đối với người đã ngồi quen rồi hoặc còn trẻ tuổi).

 Người mới tập ngồi thường hay bị tê chân, qua thời gian hết tê thì đau mỏi, về sau khi hết đau mỏi rồi, ngồi bao lâu cũng được; nới lỏng dây bụng, cổ áo, cho rộng rãi thoải mái, sửa cho ngay ngắn.

- Về tay: Tay trái nằm ngửa để trên chân ở giữa hai đùi, tay phải cũng nằm ngửa để trên tay trái (hay ngược lại), các ngón chồng lên nhau, trừ ngón cái vừa đụng nhau, rồi hai bàn tay kéo sát vào người vừa phải thoải mái, không cho xê dịch.

- Về lưng cổ: Giữ cho xương sống và cổ ngay ngắn, không cong, không nghiêng vẹo.

- Về đầu mặt: Đầu hơi cúi một chút như thế nào để tầm mắt nhìn thẳng chạm đất xa khoảng 1 mét 5 (khoảng 5 feet) cách chỗ ngồi.

 

III). Trước khi thiền:

1- Cách thở: Tiếp theo dùng miệng thở hơi ra dài, đừng gấp cũng không nên mạnh qúa mà từ từ nhẹ nhẹ, rồi dùng mũi hít vào cũng từ từ như khi thở ra. Khi thở ra hít vào tưởng tượng như các mạch máu trong người đều theo hơi thởlưu thông cùng khắp; cũng có thể tưởng tưởng khi thở ra tất cả những buồn phiền lo lắngkhí độc trong người đều ra hết, và khi hít vào những khí trong lành đều lưu thông cùng khắp cơ thể. Thở ra hít vào 3 lần hoặc nhiều hơn tùy ý. Khi thở xong, để hơi thở tự nhiên, nhẹ nhàng, không nên cố thở, không nên kìm giữ hơi thở, không nên làm cho bụng phồng xẹp phải theo ý mình.

2- Miệng lưỡi: Xong ngậm miệng lại, hai môi khép kín vừa phải, hàm dưới trong, hàm trên ngoài, răng để khít nhau, lưỡi để sát lên trần của hàm trên.

3- Mắt: Mắt nhắm vừa đủ để che ánh sáng bên ngoài đối với ban ngày hoặc có đèn sáng, không cần phải nhắm nghiền, trong khi thiền nhắm mắt dễ bị hôn trầm (mờ mịt buồn ngủ), mở mắt to dễ bị tán loạn. Nếu thiền ban đêm hay trong phòng tối nên mở mắt một nửa có lợi tránh được buồn ngủ.

 Từ đây: giữ hơi thở điều hòa, không gấp không chậm, không gây thành tiếng, thân ngồi ngay thẳng vững vàng, không cử động xê dịch, và bắt đầu hành thiền.

 

IV). Thực hành thiền:

 Trên đây là chỉ chung cách ngồi, tùy theo pháp môn tu mà mỗi người chọn để thực hành thiền. Mỗi pháp môn đều có chỉ dẫn cách thực hành thiền riêng của nó như tu Chỉ: Là buộc tâm không cho suy nghĩ, không cho tư tưởng khởi lên, gọi là dứt vọng tâm dứt tán loạn, phải tỉnh táo sáng suốttịch tịnh vắng lặng. Tu Quán: Là quán sát các tướng nhân duyên sinh diệt, như quán “Thân bất tịnh” để đối trị tham dục, quán “Sổ tức” là đếm hơi thở ra vào, đối trị loạn động, ngăn ngừa suy nghĩ nhớ tưởng đủ thứ; tu “Tứ Niệm Xứ” quán sát “thân thọ tâm pháp”, tu “Tứ Thiền” v.v…. Riêng Thiền Tông, tuy không chủ trương ngồi thiền, vì có thể áp dụng trong mọi hoàn cảnh đi đứng nằm ngồi đều dụng công tham thiền được cả, nhưng không phải là bác bỏ hẳn việc ngồi thiền, vì những người mới tu, ngồi dễ dàng hơn cho việc thực hành tham thiền của mình.

 

1). Cách trị hôn trầm (chìm vào mê tối):

 Nếu trong khi ngồi thiền tâm biết mờ mịt, nửa thức nửa ngủ, đầu gục xuống nhiều, có khi chảy nước bọt rãi từ miệng ra, đây là hôn trầm và rơi vào Vô Ký (không tỉnh), phải nhấc đầu lên, mắt mở to ra một chút, để tâm nơi đầu mũi. Nếu vẫn còn xẩy ra như thế, phải quán “Sổ tức” để trị hôn trầm, đối với người tham thiền phải biết mình tham và nghe rõ câu tham tuy không mở miệng.
Còn có nhiều cách trị buồn ngủ khác mà đức Phật đã dạy, sau đây chúng ta lược trích một đoạn Kinh Trưởng Lão Buồn Ngủ (thùy miên) trong Trung A Hàm quyển 2 từ trang 391: Một thời Phật du hóavườn Lộc Dã xứ Bà Kỳ Sấu, khi đó Tôn giả Trưởng Lão Mục Kiền Liên lại ở làng Thiện tri thức nước Ma Kiệt. Một hôm đức Phật ở trong định thấy Tôn giả Mục Kiền Liên đang buồn ngủ, Ngài liền dùng Như kỳ tượng định, chỉ trong chớp mắt Ngài tới ngay trước mặt Tôn giả Mục Kiền Liên và nói:

Mục Kiền Liên, Thầy đang mắc phải chứng buồn ngủ.

 Tôn giả Mục Kiền Liên bừng tỉnh, vội trả lời:

- Thưa Thế Tôn, quả thật con đang mắc chứng buồn ngủ.

- Nếu buồn ngủ, thầy biết là tướng nào của mình (sở tướng) gây buồn ngủ, thầy chớ tu tập theo tướng ấy nữa. Hãy theo giáo pháp khác đã được nghe được biết tùy theo đó mà thụ trì, suy niệm suy tư.

 Nếu chứng buồn ngủ vẫn chưa hết, hãy dùng hai tay xoa hai bên mép tai, hoặc rửa mặt, hoặc đi tắm. Nếu vẫn chưa hết buồn ngủ, hãy đi ra ngoài nhìn trăng sao, đi kinh hành, giữ chính niệm, giữ gìn các căn, trụ tâm bên trong.

 Sau khi kinh hành, ngồi thiền trở lại, nếu buồn ngủ vẫn chưa hết, hãy nằm nghiêng bên phải, hai chân chồng lên nhau; khởi nghĩ tưởng về ánh sáng (quang minh tưởng), lập an trú chính niệm, khởi ý niệm luôn luôn muốn thức dậy; đừng ham lạc thú ngủ nghỉ, tài lợi, danh dự …, khi đức Phật giảng dạy cho Tôn giả Mục Kiền Liên xong, Ngài biến khỏi nơi ấy trở về vườn Lộc Dã.

2). Cách trị tán loạn:

 Nếu ngồi thiền để lưng cong ễnh bụng ra dễ sinh mệt mỏi, tán loạn (suy nghĩ tưởng nhớ đủ thứ chuyện), sinh bệnh, phải sửa lại lưng cho ngay thoải mái, để tâm nơi đầu mũi; nếu vẫn còn xẩy ra nhiều lần như thế, phải quán Sổ tức để trị tán loạn. Đối với người tham thiền phải quay trở lại với câu thoại đầu tham cho rõ ràng.

 Nên nhớ bài kệ của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác:

Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,

Vô ký lặng lặng sai,

Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,

Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.

3). Thời gian Thiền, tham:

 Thời gian thiền dài ngắn tùy theo mỗi hành giả, từ nửa giờ cho tới một giờ hay hơn nữa, tùy sức mỗi người; thông thường khi mới tập thiền, ngồi trong thời gian ngắn, sau dần dần tăng thời gian dài hơn lên.

 

V). Xả thiền:

 Khi xuất thiền trước nhất phóng tâm theo cảnh khác, kế há miệng thở ra hơi dài từ từ, dùng mũi hít vào cũng từ từ, tưởng tượng khắp các mạch máu, thớ thịt đều theo hơi thởlưu thông cùng khắp. Kế là động nhẹ thân, hai vai, các bắp thịt hai tay, lưng, cổ, rồi động đến bắp thịt hai chân. Sau nữa, hai tay xoa vào nhau nhiều lần, áp đặt hai bàn tay, các ngón tay trên hai mắt khoảng năm ba giây, xong xoa vuốt mặt đầu cổ, làm ba lần, xong dùng hai bàn tay bóp nhẹ hai bàn chân, bắp thịt chân và đùi.

 Việc xả thiền trên đây phải làm từ từ không vội gấp, nếu làm không đúng, có thể bị chứng nhức đầu, các khớp xương cứng khó cử động, các bắp thịt chân bị chuột rút, tê cứng v.v… và nhất là về sau mỗi khi tọa thiền cảm thấy khó chịu không yên.

 

VI). Quán hơi thở: Có 3 cách quán hơi thở:

1)- Quán sổ tức: Là quán đếm hơi thở. Quán hơi thởcăn bản để trị hôn trầm tán loạn. Tất cả các pháp môn, trong khi thiền đều có thể xảy ra hôn trầmtán loạn. Nên chúng tôi viểt cách quán này vào đây, hy vọng nó không thừa, để giúp cho người mới tập thiền có bước đầu tiên vững chắc. Quán Sổ Tức là đếm hơi thở, có ba cách đếm:

1- Đếm hơi lẻ: Là thở hơi vào đếm một, thở hơi ra đếm hai, thở hơi vào đếm ba, thở hơi ra đếm bốn . . . cứ thế thở và đếm cho đến mười; rồi lại bắt đầu đếm từ một đến mười, cứ thế đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong nửa giờ, một giờ hay hai giờ tùy ý.

2- Đếm hơi chẵn:thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần nữa đếm hai, cứ như thế thở và đếm tuần tự tới mười; khi đếm đến mười rồi, tiếp tục đếm lại từ một cho đến mười, như thế đếm cho tới khi xả quán.

3- Đếm nghịch: Là dùng một trong hai cách đếm trên, nhưng là đếm ngược từ mười đến một.

 Nói thì dễ nhưng làm không dễ, thường hay mắc các khuyết điểm:

- Đếm nhảy, như mới đếm đến bốn liền nhảy lên sáu, mới đếm đến sáu liền nhảy lên tám v.v...

- Đếm thừa, như đã đếm đến sáu lại đếm năm, đã đếm đến bảy lại đếm bảy nữa v.v...

- Đếm quên: Đang đếm bỗng quên không nhớ là đếm đến mấy rồi!

 Nếu đếm lẫn lộn như thế, phải đếm lại.

 Trường hợp Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đần độn tụng một bài kệ bốn câu trong ba tháng mà không thuộc, lúc quên đầu, lúc sai đuôi; Phật thấy thế ban cho cách “đếm hơi thở vào ra”, Tôn giả bèn cứ thế mà thực hành không hề ngưng nghỉ, chỉ chú tâm đếm theo hơi thở, ngoài hơi thở ra không suy nghĩ tưởng nhớ sự vật gì khác, cho đến vi tế tột cùng, Tôn giả thấy hết thảy đều sinh (sinh ra), trụ (có thấy đó), dị (biến hoại), diệt (mất đi) từng mỗi sát na, và đạt đến tâm định tĩnh rỗng rang tự tại vô ngại; Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đã được Phật ấn chứng là bậc A La Hán (Bậc Thánh).

2). Quán Tùy Tức: Tôn giả Tôn Đà La Nan Đà mỗi khi ngồi thiền tâm thường loạn động, đức Phật thấy thế dạy quán “tướng trắng trên chót mũi”, chuyên chú tập trung tất cả vào đó. Tôn giả quán sát kỹ trên đầu mũi như thế, sau 21 ngày Tôn giả thấy hơi trong mũi thở ra vào như khói, thân tâm thế giới trong ngoài rỗng suốt trong sạch như ngọc lưu ly. Rồi dần dần tướng khói tiêu mất, mà hơi thở lại biến thành sắc trắng, tâm được khai ngộ, các lậu hoặc phiền não khai trừ sạch, hơi thở ra vào biến thành quang minh soi khắp cùng mười phương thế giới; Tôn giả đã được đức Phật ấn chứng là bậc A La Hán, và thọ ký cho Tôn giả sẽ đắc qủa Bồ đề (thành Phật) trong tương lai.

3). Quán An Ba Ban Na: Tôn giả La Vân là con ruột của đức Phật thường lo buồn, hay suy nghĩ tưởng nhớ đủ thứ chuyện được đức Phật chỉ cho cách tu “An Ba Ban Na” một cách đầy đủ. Sau khi ghi nhận lời dạy một cách chu đáo, Tôn giả La Vân liền đến gốc cây ngồi kết già, chính thân chính ý, không nghĩ tưởng chuyện khác, buộc tâm ở chót đầu mũi. Tôn giả thở vào dài biết thở vào dài, thở ra dài biết thở ra dài; thở vào ngắn biết thở vào ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn; thở vào mát cũng biết thở vào mát, thở ra mát cũng biết thở ra mát; thở vào ấm cũng biết thở vào ấm, thở ra ấm cũng biết thở ra ấm. Quán khắp thân thể: hơi thở vào ra thảy đều biết cả; lúc có thở biết có thở, lúc không thở biết không thở; hơi thở từ ngoài vào biết hơi thở từ ngoài vào, hơi thở từ trong ra biết hơi thở từ trong ra.

 Tôn giả La Vân tư duy như thế, dục tâm liền được giải thoát, có giác có quán, hoan hỉ an lạc đạt Sơ thiền. Có giác có quán hỉ, chuyên chú nhất tâm, nhập tam muội không giác không quán, hỉ lạc đạt Nhị thiền; không còn niệm hỉ lạc, tự giữ giác tri thân lạc, xả niệm hỉ đạt Tam thiền; khổ vui đã diệt hết sầu lo, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh đạt Tứ thiền. Do tam muội này, tâm thanh tịnh sáng suốt, biết từ đâu sinh ra, biết vô số kiếp về trước của mình, biết chỗ khởi tâm suy nghĩ của chúng sanh, biết nhân qủa lành dữ của hết thảy chúng sanh. Do tam muội này, thấy biết như thật về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và con đường dẫn đến Đạo. Do tam muội này, tâm dục lậu đã sạch, liền được giải thoát, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, biết rõ không còn tái sinh, đã ra ngoài vòng luân hồi sinh tử của sáu cõi.

 Lúc ấy, đức Phật bảo các Tỳ Kheo: “Tỳ Kheo La Vân là người trì cấm giới thứ nhất, cũng là người thứ nhất sạch hết hữu lậu trong các vị đắc A La Hán”.,.

Toàn Không

Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Bảy 201408:02
Khách
con rat muon hoc hoi va thuc hanh thien tai nha nhung con nghe noi tu hoc thien se bi "tau qua nhap ma" nen cung hoi so.vi o nuoc ngoai nen khong co co hoi tim thay dai cach thien dinh.nay nhan day con muon xin y kien thay va cac ban doc gia cho con biet them ve nhung hien tuong gi se gap phai khi tu hanh thien va cah khac phuc nhung hien tuong do?tu hoc thien co qua nguy hiem khong?xin cam on.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9610)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10166)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20508)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11705)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46796)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12143)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11840)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17917)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10199)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17876)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18257)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17088)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11531)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11690)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19862)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7225)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9251)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14937)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18715)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15323)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17374)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29841)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31622)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32888)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30888)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32671)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39420)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40521)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50239)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16133)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25534)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17860)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33403)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39706)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44092)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23146)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44157)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42959)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44488)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39284)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19307)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35729)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24273)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20449)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19068)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18980)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19372)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20375)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15614)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36384)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20352)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31601)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15982)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35985)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34467)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19543)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18992)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22984)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20231)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18417)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant