Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Tông tại Cuba

03 Tháng Mười Hai 201612:32(Xem: 10742)
Thiên Tông tại Cuba
THIỀN TÔNG TẠI CUBA 
Nguyên Giác

la-habana-zen-dojoLa Habana zen dojo

Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêmtại đảo quốc xinh đẹp này. Và cũng kỳ lạ, Omar Perez, một nhà thơ và là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Cuba – con trai của lãnh tụ du kích  Che Guevara – đã trở thành một tu sĩ Thiền Tông.

Theo thống kê năm 2010, Pew Forum ước tính rằng 65% cư dân Cuba theo đạo Thiên Chúa Giáo (60% Công giáo La Mã, tức là khoảng 6.9 triệu người trong năm 2016, trong khi 5% theo Đạo Tin Lành Phúc Âm, tức là khoảng 575,000 người vào năm 2016), với 23% không theo tôn giáo nào, 17% theo đạo bản xứ (như tínngưỡng Santería), phần còn lại 0.4% theo các tôn giáo khác, kể cả Do Thái GiáoHồi Giáo, Bahai… Phật tử được ước tính là chưa tới 0.1% dân số.

dojo zen
Hình ảnh mặt tiền một ngôi thiền đường tại Cuba

Cuba chính thức là nhà nước thế tục. Năm 1992, nhà nước Cuba  sửa Hiến pháp, cắt bỏ câu tuyên bố nhà nước vô thần, và tôn giáođược cởi mở hơn.

Theo bài viết “Zen in Cuba” (Thiền Tông tại Cuba) trên trang Zen Forum International ngày 4 tháng 9/2012, tác giả Ed Blanco kể lại theo lời một người Cuba đã tập hợp được một nhóm tu học tại Cuba. Tuy nhiên, sau khi anh này rời Cuba, tăng thân đó tan rã. Việc này dễ hiểu, vì tụ tập đông người ở Cuba lúc nào cũng bị quan sát.

Người kể được Blanco gọi tên tắt là M.

Nhóm tu học khởi sự từ năm 1990. Đó vẫn là một thời kỳ bình an ở Cuba, trong khi bên ngoài, thế giới các nước xã hội chủ nghĩa đầy những biến động.

Nhóm tu học này lúc đầu không có thầy hướng dẫn, chỉ học qua sách, và ngồi theo phương pháp Thiền Tào ĐộngNhật Bản (Soto Zen).

Zazen au dojo de Montpellier
Một buổi tọa thiền tại thiền đường Montpellier

Trong vài trường hợp, họ thực hiện các thiền thất (sesshin = tiếp tâm, một khóa thiền kéo dài nhiều ngày, trong đó rất nhiều giờ ngồi thiền) dài 15 ngày trong hầm nhà. Không có tọa cụ hay nệm gì hết, họ ngồi trên các viên gạch phủ mền. Họ đi xe đạp tới, hay đi bộ tới, bởi vì xe buýt lúc đó có khi không chạy. Không có đèn cầy, không có hương trầm, chỉ có trà và ăn cơm với rau nhẹ nhàng.

Thế rồi, có người đề nghị họ mời một Thiền sư họ thấy tên trong một tạp chí. M. nói rằng người đó là Stephan, một Thiền sư người Pháp.

 Họ viết thư gửi tới Stephan, tình cờ lúc đó vị thầy này đang ở Argentina hướng dẫn thiền thất tiếp tâmThư ký vị này ở Pháp mới gửi fax sang Argentina và từ đây vị thầy này gọi tới nhóm thiền tự học ở Cuba. Nhóm tu học này lúng túng giải thích rằng họ cần một vị thầy hướng dẫn, nhưng chỗ ăn, chỗ ở tại Cuba rất mực là gian nan. Khi thầy Stephan nói đồng ý tới,  nhóm tu học bừng lên vui mừng.

Từ đó, thầy Stephan cung cấp chi phí linh tinh. Nến và hương, và cả trà nữa. Các bạn thiền từ Châu Âu và Nam Mỹ gửi vật liệu tới, và nhóm tu học khâu thành các tấm nệm và tọa cụ, và thấy như mình đang lên cõi trời. Có thêm nhiều khóa thiền thất, và các chuyến đi hàng năm của thầy Stephan, và các sư, ni của thầy này gửi tới.

Sau đó là quy ythọ giới. Và truyền giới xuất gia (ordination). Lần đầu, áo tràng (kesa) được nhìn thấy tại Cuba. Các khách phương xa tới, kinh ngạc vì thấy giao thông và lương thực ở Cuba quá sức gian nan trong đời sống hàng ngày của dân. Công an quan sát, nhưng vẫn thả lỏng.

Khi chuẩn bị khóa thiền thất đầu tiên với thầy Stephan, có hơn 1,000 người ghi danh từ thành phố và từ các phần khác trên đảo quốc. Nhóm tu học thuê 2 căn nhà ven biển, thu mua thực phẩm. Công an tới hỏi. Zen là cái gì? Nhóm tu học nói, cũng khó trả lời. Có phải tôn giáo không? Theo ý nghĩa về tôn giáo phương tây, không phải là tôn giáo đâu. Quý vị có thờ Thượng Đế Tối Cao không? Không… và hỏi/đáp như thế dài dòng, rồi tham khảo, rồi hỏi/đáp.

Winter Camp 2016
Poster ghi danh khoá tu mùa Đông 2016

Thế rồi, công an quyết định rằng, thiền thất không thể dài 10 ngày, và sẽ không có chuyện 1,000 người tụ họp nơi đây. Theo luật Cuba, không thể tụ tập quá 3 người, nếu không có giấy cấp từ Ủy Ban Bảo Vệ Cách Mạngcủa khu phố. Quyết định là, chỉ cho thành viên nguyên thủy của nhóm tu học với vị thầy và các nhà sư tham dự khóa này. CHẤM HẾT. Nghĩa là, không ý kiến gì khác.

M. lúc đó lạnh người. Thầy Stephan bước ra. Blanco nghi ngờ rằng có thể M. đọc sai tên vị thầy này, vì không phải người Cuba nào cũng thông thạotiếng Pháp đủ, trong khi lại phải phiên âm giữa 2 ngôn ngữ, và có thể là Estephan. Thế rồi Manuelito (có vẻ như tác giả Blanco quên viết tắt, thế nên lộ ra tên gốc) nói rằng anh ta sẵn sàng thương lượng với ông Bộ Trưởng, một người bạn thời thơ ấu của anh, đó là cách phải dịu giọng và nài nỉ khi bạn không nằm trong thượng tầng quyền lực cách mạng.

Thầy Stephan nói, KHÔNG. Chúng ta sẽ có khóa 10 ngày thiền thất tiếp tâm  ngay cả khi tôi ngồi một  mình. Zen là Tự Do, và không có thể là dây cương ngựa. Bạn muốn biết Zen là gì, Zen chính là tự do bên trong và bên ngoài.

M. lạnh người. Người ta có thể nói chữ Hòa bình, nhưng không thể nói chữ Tự do ở Cuba. Thế rồi, nhờ một cơ duyên, M. cùng vợ rời Cuba.  Đó là chuyện gần 2 thập niên trước.

Bây giờ đã khác rồi. Dòng Thiền theo truyền thống Nhật Bản của Thiền sư Deshimaru đã chính thức mở một thiền đường có tu học hàng ngày ở La Habana, thủ đô Cuba. Thiền đường này có các thiền thất thường xuyêngiữ gìnbởi tăng thân Kosen Sangha.(1)

Một điểm kỳ lạ của lịch sử: Omar Pérez (sinh năm 1964) -- con trai của cố lãnh tụ Ernesto “Che” Guevara, người đã  cùng Fidel Castro làm cuộc cách mạng 1959 và xây dựng lên Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Cuba – đã trở thành một tu sĩ Thiền Tông. (2)

Omar Pérez López
Omar Pérez López

Là nhà thơ, nhà dịch thuật, Omar Pérez sinh trưởng ở Havana. Tốt nghiệp bằng cử nhân Anh văn ở University of Havana và học tiếng Ý ở Universitá per Straniere di Siena. Từng làm phóng viên ở El Caimán Barbudo, làm biên tập viên cho tạp chí La naranja dulce. Biên tập tạp chí thi ca Mantis từ 1994 tới 1996.

Thọ giới tu sĩ Thiền Tông (Ordained as a Zen Buddhist monk), Pérez sáng tácthơ trong đó gắn liền ngôn ngữThiền Tông, và kinh nghiệm siêu vượt văn hóa và chính trị. Hiện cư ngụ ở Havana. Ông được trao nhiều giải thi ca.

Trên tạp chí Jacket Magazine, nhà nghiên cứu Kristin Dykstra viết về nhà thơ tu sĩ Thiền Tông Omar Perez:

“Nhiều bài thơ từ tuyển tập năm 1999 nói về khả thể của giác ngộ và về các bước tiến và trình tự Thiền định. Bài thơ “Kosen” là để cúng dường vị thầy quan trọng đối với Pérez, và Perez đã nói với Kent Johnson, “Tôi tin rằng sự kiện Thiền Tông vào Cuba, cùng với Thiền sư Kosen Thibaut, cũng quan trọng ngang tầm với sự kiện Martí ra đời, ngang tầm với  cuộc cách mạng 1959.”…” (3)

Cần ghi thêm về Marti: đó là Jose Julian Marti Perez (1853-1895), lãnh đạo phong trào độc lập Cuba, khởi nghĩa  chống thực dân Tây Ban Nha.

Cách mạng 1959 là cuộc cách mạng do Fidel Castro và Che Guevara lãnh đạo, lật đổ nhà độc tài Batista.

Có phải Thiền Tông tự thân đã mang sức mạnh cách mạng?

Đó là những bước đi kỳ lạ nhất của lịch sửThiền Tông từ Nhật tới Pháp quốc, rồi tới Cuba. Và rồi những khóa thiền thất ngồi dưới hầm nhà. Và rồi nhà thơ nổi tiếng Omar Perez, con trai của lãnh tụ du kích Che Guevara, trở thành một nhà sư Thiền Tông, và nhà thơ đánh giá rằng sự kiện Thiền Tông tới Cuba cũng là một cuộc cách mạngvô cùng lớn lao.

GHI CHÚ:

(1) http://www.zen-deshimaru.com/en/dojos/la-habana-zen-dojo

(2)  https://www.poetryfoundation.org/poems-and-poets/poets/detail/omar-perez#poet  

(3)  Many poems from the 1999 collection dwell on the possibility of enlightenment and on processes and stages of meditation. The poem “Kosen” is dedicated to a master important to Pérez, who tells Kent Johnson, “I believe the arrival of Zen Buddhism in Cuba, with master Kosen Thibaut, to be as important as Martí’s birth or the 1959 revolution.” (http://jacketmagazine.com/35/perez-overview.shtml)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33417)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54522)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63655)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13841)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13911)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14304)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12643)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14816)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13809)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30385)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11828)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29394)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30574)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31198)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37085)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32228)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23654)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12217)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14087)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33968)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12453)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29355)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12386)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29216)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27994)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25661)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26031)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22263)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33125)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31799)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39578)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22419)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34468)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27341)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28354)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant