Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Định Shamatha – Luyện Tâm

12 Tháng Sáu 201913:23(Xem: 5355)
Thiền Định Shamatha – Luyện Tâm

THIỀN ĐỊNH SHAMATHA – LUYỆN TÂM
Sakyong Mipham Rinpoche | Nguyễn Văn Nghệ Dịch

“Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền tĩnh lặng hay thiền chỉ (Shamatha meditation)” Sakyong Mipham Rinpoche đã nói như vậy.

 

Đôi khi chúng  ta  quên  giáo  lý của  Đức Phật đã hình thành  như thế nào. Chúng ta quên  tại sao Đức Phật lại từ bỏ cung điện của vua cha mà ra đi. Ngài không hài lòng với một ảo tưởng và Ngài muốn hiểu cuộc đời của mình – chính bản thân  cuộc đời. Cũng giống như Đức Phật, phần đông chúng ta mong muốn khám phá một chân lý nào đó về cuộc đời của chúng ta. Nhưng có thật là chúng ta có thể biết được những gì đang xảy ra? Đây là một câu hỏi có liên quan đến cái chân lý sâu sắc nhất của giáo lý Đức Phật. Câu trả lời của Đức Phật là “Vâng.  Rốt cục rồi chúng  ta cũng có thể. Nhưng chúng ta cần phải có một quá trình thiền định để tìm ra, bởi vì về bản chất, chúng ta đang ở trong một trạng thái hoang  mang bối rối”. Tại sao chúng  ta hoang mang bối rối? Bởi vì chúng ta không hiểu được tâm của chúng ta vận hành như thế nào.

Quá trình hóa giải sự hoang  mang bối rối dựa vào việc nuôi dưỡng năng lực làm quen với tâm, củng cốgia tăng sức mạnh của tâm chúng  ta. Ý thức được và tinh mắt quan sát những gì đang xảy ra trong tâm chúng  ta cho chúng  ta cơ hội để lúc nào cũng nhìn thấy một cấp độ chân lý sâu sắc hơn. Trong việc thực hành  thiền định, chúng  ta học cách để có được một cách nhìn rộng lớn hơn, thay vì lúc nào cũng suy nghĩ nhỏ nhặt.

Đức Phật đã hiểu rằng nếu chúng ta muốn thực hiện một quá trình gì đó – không nhất thiết là một quá trình tâm linh mà có thể là một quá trình trong cuộc sống bình thường như là học hành hay kinh doanh – chúng ta cần một cái tâm có thể hoạt động  được. Chúng ta cần một cái tâm mà chúng  ta có thể trông cậy. Đó là khái niệm luyện tâm, làm cho tâm có thể hoạt  động được để cho nó có thể làm những gì nó cần làm.

Thiền shamatha hay là thiền chỉ (tĩnh lặng, ngưng bặt, an bình) là cách chúng  ta làm cho cái tâm  này, ổn  định  hơn,  hữu  dụng  hơn. Theo quan  điểm  này shamatha không thuần túy là một cách thực hành của người Phật tử; nó là một cách thực hành bất kỳ ai cũng có thể làm được. Nó không gắn kết với một tôn giáo nào hết. Nếu chúng ta muốn hóa giải sự hoang mang bối rối, chúng  ta phải cố gắng  tìm hiểu tâm là gì và nó hoạt động như thế nào, không liên quan gì đến tín ngưỡng của chúng ta.

Chữ shamatha trong tiếng Phạn có nghĩa là “yên tịnh dài lâu”. “Yên tịnh dài lâu” miêu tả bản chất tự nhiên của tâm. Chữ “yên tịnh” nói lên toàn bộ ý nghĩa. Bản chất của tâm là tràn ngập  niềm vui, tĩnh lặng và rất trong sáng. Trong thiền  shamatha chúng  ta không  tạo  ra trạng thái yên tịnh – điều ta làm trước tiênchúng ta để cho tâm chúng ta như nó vốn vậy. Điều này không có nghĩa là làm ngơ một cách bình thản trước mọi sự. Điều này có nghĩa là tâm có thể duy trì trạng thái tự nhiên của nó mà không thường  xuyên tách rời trạng thái đó.

Trong thiền  định,  chúng  ta  tập  cách  giữ lâu dài trạng  thái yên tịnh: Chúng ta học cách để cho chính mình ở trong trạng thái yên tịnh. Nếu chúng ta có thể nhớ ý nghĩa của chữ “shamatha” chúng ta có thể luôn luôn dùng  chữ đó như là một điểm tham khảo trong việc tập thiền định của chúng ta. Chúng ta có thể nói, “Chúng ta đang tập thiền định gì đây? Đây là shamatha – duy trì lâu dài sự an bình tĩnh lặng”.

Trong lúc đó chúng ta bắt đầu thấy rằng tâm chúng ta không phải lúc nào cũng ở trong trạng thái an bình tĩnh lặng. Có thể nó đang  ở trong trạng thái bực bội, giận dữ, ghen ghét. Nhìn thấy được tất cả chuyện này là cách chúng ta bắt đầu gỡ bỏ sự hoang mang, bối rối của chúng ta.

Thiền định là một sự luyện tập rất riêng tư. Giống như  Đức Phật,  chúng  ta  có  thể  tiếp  cận  nó  bằng phương pháp nhận thức giá trị. “Điều gì thực sự có giá trị? Chân lý của trải nghiệm của chúng ta là gì?” Chúng ta bắt đầu ý thức được rằng chúng  ta không biết, và chúng ta đâm ra hiếu kỳ muốn biết.

Khi cố gắng tìm hiểu như vậy chúng ta nhảy nhanh từ câu hỏi qua câu trả lời, mỗi câu trả lời mới lại đưa đến một câu hỏi mới. Và nếu chúng ta kiên trì tiếp tục như vậy chúng ta bắt đầu trải nghiệm một chân lý khác mà Đức Phật cũng đã khám phá ra: Trong mỗi tình huống, có một thể liên tục của chân lý. Mỗi câu trả lời được nối tiếp một cách tự nhiên  với một câu hỏi kế tiếp. Liền một mạch, không có ngắt quãng.

Với loại thực hành và tính hay dò hỏi này, Đức Phật đã biết cách nhìn quang  cảnh cuộc sống một cách rõ ràng và khách quan. Khi bắt đầu thuyết giáo, Ngài chỉ  tường  thuật  lại những  gì Ngài quan  sát thấy: “Đây là điều Ta thấy. Đây là chân lý về mọi sự”. Ngài không trình bày bất kỳ quan điểm đặc biệt nào. Ngài không thuyết giảng  giáo điều; Ngài chỉ rõ thực tế. Chúng ta quên điều này. Ví dụ như phần đông chúng ta nói rằng một trong những lời dạy cốt yếu trong Phật giáo là nghiệp. Nhưng Đức Phật không sáng tạo ra nghiệp; Ngài nhìn thấy nghiệp  và thừa nhận nó. Nói rằng nghiệp  là một niềm tin của đạo Phật thì chẳng khác gì nói Phật tử tin rằng nước là ẩm ướt. Và nếu bạn là Phật tử thì bạn cũng phải tin rằng lửa thì nóng.

Trong thiền  định,  điều  chúng  ta  làm là nhìn  trải nghiệm của chúng ta và nhìn thế giới một cách thông minh. Đức Phật nói rằng đây là cách ta tập nhìn vào bất kỳ tình huống  nào và hiểu chân lý của nó, thông  điệp thật sự của nó, thực tế của nó. Đây là điều Đức Phật đã làm – và tất cả chúng ta đều có khả năng thành Phật, cho dù chúng ta có là Phật tử hay không. Chúng ta đều có năng  lực nhận  ra được cái tâm an bình một cách tự nhiên  của chúng  ta, nơi không  có chút  hỗn  loạn rối rắm nào. Chúng ta có thể dùng sự trong sáng  của tâm chúng ta để tập trung vào bất kỳ điều gì chúng ta muốn. Nhưng trước tiên chúng ta phải điều phục tâm của chúng ta thông qua thiền định shamatha.

Có thể chúng ta liên kết thiền định với chuyện tâm linh bởi vì khi chúng ta trải qua một giây phút yên tịnh dài lâu, giây phút đó có vẻ như cao siêu huyền bí lắm. Tâm chúng  ta không còn bị trôi giạt, nghĩ ngợi về vô số chuyện nữa. Mặt trời mọc và một cơn gió nhẹ mát mẻ thổi qua – và bỗng nhiên chúng ta cảm nhận được cơn gió thoảng  và chúng  ta thấy rất hứng thú. Chúng ta nghĩ, “Đó là một trải nghiệm rất có tính tâm linh! Một trải nghiệm  mang tính tôn giáo! Trải nghiệm  này chí ít cũng đáng cho chúng ta làm một bài thơ hay viết một lá thư thăm nhà! Tuy nhiên tất cả chuyện đang xảy ra là chúng ta hòa hợp với tâm của mình trong giây lát. Tâm chúng ta đang ở đây và dễ hòa hợp. Trước đây chúng ta bận rộn và hoang mang quá nên chúng ta không chú ý đến cơn gió thoảng. Tâm chúng ta không thể ở yên đủ lâu để ngắm mặt trời mọc dù chuyện này chỉ mất hai phút rưỡi. Bây giờ chúng ta có thể giữ cho tâm ở yên đủ lâu để nhận biếtthưởng thức những cảnh đẹp quanh chúng ta. Bây giờ chúng ta đang thực sự ở đây. Thật ra chuyện này là bình thường. Chúng ta có thể điều phục tâm của chúng ta. Chúng ta có thể luyện tâm làm cho tâm trở nên hữu dụng và hoạt động được.

Đây không phải vấn đề ta có là Phật tử hay không, nó là vấn đề của con người nói chung.■ „

 

Nguồn: Shamatha Meditation: Training the Mind, Sakyong Mipham Rinpoche, Shambhala Sun số tháng Năm 2002.

Sakyong Mipham Rinpoche là người giữ truyền thừa của phái Shambhala Buddhist do người cha đã quá cố của ngài là Chogyam Trungpa Rinpoche thành lập.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19533)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33420)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34484)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54527)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37729)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17889)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22459)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56975)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13842)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29015)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38389)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14305)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12644)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13809)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30394)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11835)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29395)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30575)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31199)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37090)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32229)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12218)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14090)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33969)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12456)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28633)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29358)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12387)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29217)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27997)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25662)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26031)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22263)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33134)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31802)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39579)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22420)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34469)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27341)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28356)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant