Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Những bài kệ mở đầu

05 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 10584)
03. Những bài kệ mở đầu

KHO TÀNG TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ

The Heart Treasure of the Enlightened Ones
Nguyên tác: Patrul Rinpoche - Bản dịch Anh: Nhóm dịch thuật Padmakara
Bản dịch Việt: An Phong và Đương Đạo - Thiện Tri Thức, 1999


NHỮNG BÀI KỆ MỞ ĐẦU

Kính lễ

Bản văn mở đầu với sự kính lễ :

NAMO LOKESHVARAYA

Câu tiếng Sanskrit này nghĩa là “Con kính lễ Bậc Tối Cao của Vũ Trụ”, chỉ Đại Bồ tát Quán Thế Âm, hay Chenrezi.

Đại bi khắp vũ trụ của Quán Thế Âm bao trùm mọi chúng sanh, từ người bình thường đến vua chúa, từ Thanh VănBích Chi Phật đến Bồ tát trong mười địa.(16) Quán Thế Âm hiện thân của lòng đại bi không tách lìa với cảnh giới bao la của tâm Phật. Lòng bi có một vị trí trung tâm trong giáo lý Phật bởi vì chính từ lòng bi mà tất cả sự rộng lớn và sâu xa của con đường Bồ tát sanh khởi ; lòng bi là bản thân tâm giác ngộ. Trong phương diện tương đối, Quán Thế Âm xuất hiện trong vũ trụ vì tất cả chúng sanh trong hình thể một Đại Bồ tát của địa thứ mười, một người con ruột của tất cả chư Phật. Trong phương diện tuyệt đối, ngài chính là nền tảng từ đó xuất sanh tất cả chư Phật và các cõi Phật của chư Phật, cũng như tất cả chuyển luân vương của kiếp này. Bởi thế ngài được biết như là Bậc Tối Cao của Vũ Trụ, nghĩa là ngài không chỉ là một vị vua trong nghĩa thông thường mà là Vua của Pháp, bậc tối cao của trí huệđại bi, hoàn toàn giải thoát khỏi ba cõi sanh tử,(17) vĩnh viễn vượt ngoài sự chạm đến của sanh, già, bệnh, chết. Để gặp gỡ mọi nhu cầu của chúng sanh, ngài biểu lộ trong vô số hình thể, từ những bậc cai trị thế giới đến người dân thường và thú vật. Ngài tiêu biểu cho sự giải thoát hoàn hảo hồi hướng về phúc lợi của tất cả.

Đây là tại sao dòng mở đầu để dành cho sự kính lễ Quán Thế Âm, với sự sùng mộ không bờ. Rồi tiếp theo một sự kính lễ mở rộng hơn:

1. Nếu như chỉ một giọt cam lồ của danh hiệu ngài lọt vào tai tôi,
Chúng sẽ ngập đầy âm thanh của Pháp cho vô số kiếp.
Tam Bảo thần diệu, nguyện sự sáng chói của danh ngài
Đem đến hạnh phúc hoàn hảo cho khắp cả!

Ở đây, sự kính lễ mở rộng đến Tam Bảo : Phật, Pháp và Tăng. Những danh hiệu của Tam Bảo, cực kỳ dễ nói lên, tuy nhiênnăng lực vô biên để ban phước cho chúng sanhgiải thoát họ khỏi sanh tử. Những danh hiệu này giống như nước cam lồ của sự bất tử, amrita, chỉ một giọt cũng có thể làm dịu những thống khổ của sanh tử. Chỉ nghe được chúng là đã gieo trồng trong chúng ta hạt giống của giải thoátbảo đảm một sự tái sanh vào một nơi có Phật pháp được chỉ dạy và ở đó sự tiến bộ đến giác ngộ là khả thi.

Chúng ta phải xem Phật là vị thầy, Pháp là con đường, và Tăng là những bạn đồng hành trên con đường.

Ở cấp độ tuyệt đối, Pháp thân, tâm của Phật là cảnh giới bao la của toàn trí, nó biết mọi sự đúng như chúng là. Ở cấp độ Báo thân, siêu vượt khỏi sanh tử, lời của Phật tương tục thuyết pháp. Ở cấp độ Hóa thân, có thể thấy biết được cho những người bình thường như chúng ta, thân của Phật mang hình tướng là Phật Thích Ca Mâu Ni, vị thứ tư trong một ngàn vị Phật xuất hiện trong kiếp này.

Phật Thích Ca Mâu Ni sinh tại Ấn Độ như là hoàng tử Siddhartha của Vua Shuddhodana và hoàng hậu Mahamaya thuộc giai cấp Shakya. Khi còn trẻ, ngài hưởng những thú vui của cuộc đời một hoàng tử, nhưng về sau ngài từ bỏ những quan tâm thế gian và hiến mình thực hành khổ hạnh trong sáu năm. Cuối cùng, từ bỏ ngay cả những khổ hạnh này, ngài thành tựu giác ngộ trọn vẹn dưới cội cây bồ đề ở Vajrasana.(18) Trong bốn mươi năm ngài dạy Pháp cho sự lợi lạc của chúng sanh. Sau chót, khi phước lành của họ đã cạn kiệt, ngài đi vào đại thanh bình của đại niết bàn.(19)

Qua năng lực của toàn giác, đức Phật thấy rõ những tính khí và khuynh hướng khác biệt nơi những người ngài chỉ dạy. Để cho mỗi người một phương cách đạt đến giác ngộ, ngài chỉ bày tám mươi bốn ngàn phần khác nhau của Pháp. Giáo lý này, Pháp, là Viên Ngọc Quý thứ hai.

Ba chu kỳ chỉ dạy của ngài được biết như là ba lần chuyển bánh xe Pháp. Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ nhất, ngài dạy Bốn Chân Lý Cao Cả chung cho cả Tiểu thừaĐại thừa. Trong lần thứ hai ở Rajagriha hay Núi Linh Thứu, ngài trình bày những giáo lý Đại thừa về chân lý tuyệt đốichân lý không có những tính chất và vượt khỏi phạm trù ý niệm. Những giáo lý này được chứa đựng trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật trong Một Trăm Ngàn Bài Kệ. Lần chuyển bánh xe Pháp thứ ba, ở những thời điểm và nơi chốn khác biệt, được dành cho những giáo lý tối hậu của Kim Cương thừa.

Pháp gồm có Pháp Trao Truyền và Pháp Thực Chứng. Pháp Trao Truyền là lời của Phật được kết tập thành Ba Tạng : Luật, Kinh và Luận. Pháp Thực Chứng là sự chứng ngộ thực sự những giáo lý này, được tu hành qua giới, định và huệ.

Viên Ngọc Quý thứ ba là Tăng, dịch ra tiếng Tây Tạng là Gendun có nghĩa đen là “cộng đồng đức hạnh”. Theo truyền thống những Bồ tátTăng già của Đại thừa, và những Thanh VănBích Chi PhậtTăng già của Tiểu thừa. Tuy nhiên, nói chung, tất cả những người nghe Pháp, suy nghĩ về nó, và thiền định về nó tạo nên Tăng già.

Tam Bảo là chỗ quy y tối thượng và tạo thành nền tảng của mọi thực hành Pháp. Kính lễ Tam Bảođồng thời kính lễ tất cả các bậc thầy, chư Phật và chư Bồ tát.

Động lực của Tác Giả trong việc Biên Soạn Bản Văn Này

Bởi vì chính Patrul Rinpoche xem Tam Bảo là vị thầy tối thượng của mình, tâm ngài hoàn toàn thấm nhuần Pháp, và ngài sống một cuộc đời hoàn toàn thanh tịnh. Bởi thế những lời dạy của ngài hoàn toàn thanh tịnh và xác thực, và bản văn này ngài tạo ra từ lòng bi tròn đầy, không chút kiêu căng hay ngạo mạn. Tuy nhiên ngài nói với sự khiêm hạ lớn lao:

2. Giống như vài quả hồng vàng trong mùa thu
Chúng dù bên trong chưa chín, mà bên ngoài thấy chín vàng,
Bản thân tôi chỉ có vẻ giống như một người thực hành Pháp,
Và bởi vì tâm tôi và Pháp chưa hòa lẫn, sự giảng dạy Pháp của tôi chẳng đáng gì nhiều.

Khi hè chuyển sang thu, những quả hồng vàng có những độ chín khác nhau. Một số quả hồng vàng thấy đã chín, nhưng bên trong chúng còn xanh. Chúng giống như những người làm ra vẻ những hành giả kiểu mẫu nhưng đầy những tư tưởng độc hại, thật ra họ bận tâm với việc tích tập giàu có, thực hiện những lễ lạc thôn làng và gây danh tiếng cho bản thân mình.

Ngược lại, những quả khác trông thì xanh ở bên ngoài, nhưng bên trong đã chín. Chúng giống như những người, dù có vẻ như ngu dốt, những người khất thực tầm thường, nhưng hoàn toàn thoát khỏi những bận tâm của sanh tử, đầy đức tin, và đã thành tựu kinh nghiệm định và chứng ngộ chân thật.

Những quả hồng vàng khác, cả ngoài lẫn trong đều xanh và chưa chín. Chúng giống như những người chưa từng đi vào Pháp, không biết gì về nó và không có niềm tin vào nó.

Cuối cùng, có vài trái hồng vàng trông đã chín và cũng thực sự chín. Chúng giống như những Đại Bồ tát, bên trong tràn đầy trí huệđại bi và bên ngoài trình diễn vô số cách thức để cứu giúp chúng sanh. Thật ra, không nghi ngờ gì, Patrul Rinpoche là một trong những Bồ tát hoàn hảo này. Jamyang Khyentse Wangpo(20) đã nói về ngài như thế này :

Tôi cầu nguyện ngài Jigme Choškyi Wangpo, bậc Vô Úy của Pháp ;
Bên ngoài ngài là Bồ tát Shantideva,
Bên trong ngài là đại thành tựu giả Shavaripa,
Và trong bản tánh tuyệt đối ngài là Giải Thoát Tự Nhiên Khỏi Khổ.(21)

Đây không phải là xưng tán chiếu lệ. Như câu chuyện cuộc đời ngài đã chứng tỏ, mọi sự Patrul Rinpoche nghĩ, nói và làm đều hoàn toàn tương ưng với Pháp. Thật vậy chính từ quan điểm này mà ngài có một lời từ chối khiêm nhường như thế.

Bất cứ ai muốn giảng dạy Pháp trước tiên phải biến nó thành một phần toàn vẹn của cuộc sống mình; không tốt nếu chỉ lập lại những lời, giống như một người điếc đàn những âm điệu dầu đẹp đẽ du dương, nhưng chính người ấy lại không nghe. Để nhận những giáo lý, động lực của chúng ta phải là một nguyện vọng thành thật muốn áp dụng chúng cho chính chúng ta ; nếu chúng ta chỉ cố gắng có được một cái gì mà chúng ta có thể dạy lại cho người khác, như bài nhạc một người ăn xin chơi để xin tiền, thì sự nhận lãnh những lời dạy sẽ không ích lợi cho bản thân chúng ta cũng như cho những người khác. Cũng sai lầm khi góp nhặt kiến thức về Pháp vì danh tiếngthế lực cho chúng ta. Như có nói, “Càng lớn kiến thức, càng nhiều kiêu mạn ; càng xa khỏi nhà, càng xa trung thực.” Làm sao chúng ta có thể giúp đỡ những người khác trước khi chúng ta đã thuần hóa những năng lực tiêu cực ẩn nấp trong bản thân chúng ta ? Đấy chỉ là một chuyện đùa, giống như một người ăn xin không có xu teng nói đến việc nuôi cả làng. Để bảo trợ cho phúc lợi thật sự của những người khác, trước tiên chúng ta phải tự hoàn thiện mình cho đến khi chúng ta có thể thi đua với Patrul Rinpoche, ngài khiêm hạ tuyên bố rằng mình chẳng có chứng ngộ nào, tuy nhiên toàn thể hiện sinh ngài thấm đẫm ý nghĩa của Pháp.

3. Nhưng vì con, người bạn xứng đáng, khăng khăng nài nỉ ta,
Ta không thể từ chối – Ta sẽ nói thẳng thắn.
Nhất là trong thời đại suy đồi này,
Ta trao tặng con những lời không lừa dối, thế nên hãy cẩn thận lắng nghe.

Nếu các bạn chỉ ra những lỗi lầm của một ai, nó sẽ trở nên hoàn toàn đảo lộn – ngay cả với con bạn hay học trò bạn. Nhưng nếu các bạn tâng bốc nó, gán cho nó những phẩm tính nó không có, thì nó sẽ thích thú. Nhưng như một châm ngôn nói, “Dù gây chấn động, tiếng sấm sét thực là âm thanh chân chánh.” Nếu người ta luôn luôn đồng ý và tâng bốc chúng ta điều ấy làm cho chúng ta cảm thấy tốt đẹp nhưng sẽ chẳng giúp gì cho chúng ta để khai triển những phẩm tính của một người thực hành Pháp. Cái thực sự giúp chúng ta nhiều nhất là chỉ ra những lỗi lầm của chúng ta và chỉ bày cách thức đúng để chúng ta xử lý với chúng. Vàng nhờ đập và nấu chảy liên tục, trở nên càng ngày càng tinh sáng. Cùng cách đó, nhờ nhận ra liên tục những lỗi lầm của chúng taáp dụng những giáo huấn của thầy, chúng ta sẽ có thể chuyển hóa những phẩm tính tiêu cực, xấu xa của chúng ta thành con đường giải thoát.

Khi một kẻ phá rối được nhận ra và tóm lấy, bình an trở lại trong làng; tương tự, khi những lỗi lầm của chúng ta được một vị thầy từ ái khai quật, cho phép chúng ta nhận ra và nhổ gốc chúng, bình an trở lại thân tâm chúng ta. Ở đây, như trong tác phẩm Kunzang La-me Shelung(22) nổi tiếng của mình, Patrul Rinpoche nói một cách thẳng thắn, đánh vào cốt lõi của những khuyết điểm của chúng ta để dẫn dắt chúng ta vào đường chánh. Ngài chỉ khai thị cái tinh yếu của Pháp, vì chúng ta không cần biết nhiều chi tiết ; điều tất cả chúng ta cần là tâm của những lời dạy dẫn đến giác ngộ.

Trong những bài kệ này, Patrul Rinpoche nói rằng dù ngài không có một đại chứng ngộ nào, ít nhất nếu ngài có thể khiêu gợi trong chúng ta quyết tâm giải thoát khỏi sanh tửkích thích một thái độ của lòng bi, thì viết ra bản văn này không phải là điều vô ích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 22100)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27526)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37891)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19585)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14455)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20937)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28661)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21938)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21464)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26213)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21621)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19825)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21151)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15411)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22524)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33205)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27062)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24355)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14640)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant