Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Về Patrul Rinpoche (1808-1887)

05 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 10220)
07. Về Patrul Rinpoche (1808-1887)

KHO TÀNG TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ

The Heart Treasure of the Enlightened Ones
Nguyên tác: Patrul Rinpoche - Bản dịch Anh: Nhóm dịch thuật Padmakara
Bản dịch Việt: An Phong và Đương Đạo - Thiện Tri Thức, 1999


Về Patrul Rinpoche
(1808-1887)

Patrul Rinpoche là một đạo sự giác ngộ, dù ngài sống cuộc đời lang thang, là một trong những bậc thầy tâm linh lừng lẫy nhất của thế kỷ vừa qua. Ký ức về ngài vẫn còn rất sống động đến ngày nay và đem lại một nguồn cảm hứng cho tất cả những hành giả Phật giáo của Tây Tạng.

Patrul Rinpoche sinh năm 1808 tại Dzachuka, một vùng du mục xứ Kham phía bắc của Shechen và Dzogchen. Trí thông minh sắc bén, từ tâm tự nhiên, và những khả năng đặc biệt sớm được thấy rõ. Ngài được công nhận như là tušlku (vị tái sanh) của một đạo sư đã sống trong vùng ấy, tên là Palge Samten Phuntshock, nổi tiếng vì đã xây dựng một bức tường một trăm ngàn viên đá khắc thần chú OMÏ MANÏI PADME HŪMÏ. Về sau, vài đại lama công nhận ngài là một hóa thân của Shantideva, và ngài cũng được nói là một hiện thân về ngữ của Jigme Lingpa. Tulku Palge trẻ tuổi – Palge là nói gọn của Patrul – được nhậm chức như là trụ trì của tu viện của vị tiền nhiệm đúng thời gian thích hợp.

Không lâu sau đó, ngài gặp vị thầy chính của mình, Jigme Gyalwai Nyugu. Vị đại sư này đã sống nhiều năm ở miền trung Tây Tạng như là một trong những đệ tử cao cấp nhất của Jigme Lingpa và khi trở lại xứ Kham, ngài đã để vài năm thiền định một mình gần nơi tuyết đóng băng vĩnh cửu trong một thung lũng hẻo lánh của Dzama Lung. Phía sườn núi đầy gió nơi ngài ở, không có ngay cả một hang động trú ẩn nào. Cái nhà độc nhất của ngài lõm sâu trong đất, và ngài sống bằng cách ăn những cây và rễ hoang. Những năm trôi qua, tiếng tăm của vị ẩn sĩ khổ hạnh lạ lùng này vang xa. Hàng trăm đệ tử đến viếng thăm ngài, sống trong những lều gần cạnh. Ngài là kiểu mẫu của người thực hành Pháp theo một cuộc sống rất giản dị, quyết tâm ở yên chỗ cho đến khi thành tựu chứng ngộ. Từ Jigme Gyalwai Nyugu, Patrul Rinpoche đã nhận không dưới hai mươi lần những chỉ dạy về những thực hành căn bản về Longchen Nyingthig, cũng như nhiều truyền thọ quan trọng khác, ngài đã nghiên cứuthực hành tất cả với nghị lực lớn lao. Thời thiếu niên, Patrul Rinpoche dành những thời kỳ dài du hành để gặp gỡ những vị thầy của ngài hay cùng đi với các vị trên những chuyến đi – nhiều người trong các vị không có chỗ ở nhất định. Ngoài Jigme Gyalwai Nyugu, Patrul gặp và học hỏi với hầu hết đại lama của thời đó, gồm Drodup Chen đệ nhất, Jigme Trinle OŠser; Jigme Ngotsar; Dola Jigme; Gyelse Shenpen Thaye của Dzogchen; và đại thành tựu giả Do Khyentse Yeshe Dorje.

Do Khyentse Yeshe Dorje là hiện thân về tâm của Rigdzin Jigme Lingpa. Vị này đã có thiên nhãn một cách tự nhiên từ hồi nhỏ và làm vô số phép lạ. Patrul Rinpoche cảm thấy ngưỡng mộ mạnh mẽ vị đạo sư không ở trong quy ước thường tục này, mà ngài xem như đích thân đức Phật. Một hôm, khi Do Khyentse đang ở Dzachu, bậc này thấy Patrul đi gần đó và kêu : “Ê ! Palge! Hãy đến đây! Hay ngươi không dám?” Vừa đến gần, Do Khyentse nắm tóc ngài, đánh ngài ngã xuống đất, và lôi ngài vòng vòng trong bụi bặm. Patrul nghĩ rằng Do Khyentse đã uống nhiều; hơi thở ngài nồng mặc mùi bia. Ngài nghĩ thầm: “Ngay cả một đại sư chứng ngộ như ngài mà có thể uống rượu và đối xử như bê bối như vầy !” Và sự diễn tả của đức Phật về những khuyết điểm về rượu hiện đến trong trí ngài.

Ngay lúc ấy, Do Khyentse thình lình buông tay, thả Patrul ra, và nhìn dữ dằn vào mắt ngài. “À !” ông nói. “Ngươi có những ý tưởng thật là vô đạo, rởm đời ! Đồ chó già !” Ông nhổ nước miếng vào mặt ngài, đưa cho ngài thấy ngón tay út của mình (một cử chỉ cùng cực xúc phạm), và bỏ đi. Thình lình, Patrul thấu hiểu : “Ta đã lầm lẫn hoàn toàn. Đây là một giáo huấn sâu xa, chỉ ra bản tánh tối hậu của tâm thức.” Ngài ngồi xuống thiền định, và kinh nghiệm về tánh giác không ngăn ngại tự nhiên đến với ngài, rõ ràng trong sáng như một bầu trời không mây. Khi Jigme Gyalwai Nyugu trước đó đã ban cho ngài sự nhập môn vào tánh giác bổn nhiên, nó giống như bình minh; kinh nghiệm này khi ở với Do Khyentse đối với ngài giống như mặt trời lên trọn vẹn. Patrul Rinpoche về sau đùa bởn về chuyện này, nói rằng: “Chó Già là tên quán đảnh bí mật mà Do Khyentse đã ban cho tôi.” Một số tác phẩm của Patrul được ký tên là “Chó Già.”

Sau cái chết của người cháu của vị tiền nhiệm, Patrul Rinpoche quyết định sống đời còn lại không nhà và tài sản. Sắp đặt mọi sự ở tự viện của ngài xong, ngài ra đi cho cuộc đời lang thang.

Những ngọn đồi và thung lung dốc và đầy cây chung quanh Tu Viện Dzogchen có những chỗ ở và Patrul Rinpoche thường ở lại đó trong thời kỳ đầu của cuộc sống không nhà của mình và ngài thường trở lại đó. Ở Dzogchen ngài đã nhận nhiều chỉ dạy từ Gyelse Shenpen Thaye và thành tựu giả Mingyur Namkhai Dorje, vị Rinpoche Dzogchen thứ tư. Cũng ở đây, trong hang Thiền Định Yamantaka, ngài tạo bản văn nổi tiếng, “Những Lời Dạy của vị Thầy Hoàn Hảo của Tôi”, Kunzang Lame Shelung.

Lang thang trong núi non, sống trong hang, rừng và những chỗ ẩn tu hoang vắng, ngài thường trực tham thiền về từ, bi và Bồ đề tâm – mong muốn đưa tất cả chúng sanh đến giải thoátgiác ngộ. Ngài xem những cái này là gốc của sự thực hành tâm linh. Với bất cứ ai, cao cũng như thấp, ngài đều nói, “Hãy có một tấm lòng tốt, và hành động với từ ái ; không gì quan trọng hơn.” Vì Bồ đề tâm của ngài càng ngày càng bao la, sự chứng ngộ Đại Toàn Thiện bao giờ cũng hiện diện của ngài cũng như vậy.

Ở tuổi bốn mươi, Patrul Rinpoche lên đường đi tỉnh Amdo để gặp gỡ đại sư Shabkar Tsokdruk Rangdrol. Trên đường đi, ngài lại nghe Shabkar đã chết. Thế nên ngài đến Golok, nơi ngài thường ở lại với Gyelse Shenpen Thaye. Ngài gây cảm hứng cho toàn vùng bằng lời dạy của mình, thuyết phục những kẻ cướp bỏ nghề trộm cướp và những thợ săn bỏ nghề giết hại.

Vào thời nhỏ, ngài đã học hỏi với những vị thầy vĩ đại trong thời đó và, với trí nhớ phi thường, đã thuộc nằm lòng hầu hết. Khi lớn tuổi, ngài có thể dạy nhiều chủ đề phức tạp của triết học Phật giáo trong hàng tháng mà không cần dựa vào một trang bản văn nào. Khi ngài dạy, tâm thức người ta hoàn toàn thay đổi. Mỗi người nghe pháp đều cảm thấy thanh thản và có thể an trụ trong tham thiền mà không phải cố gắng. Chỉ một vài lời ngài nói ra có thể mở cửa cho một chuỗi những soi chiếu mới mẻ vào đời sống tâm linh. Ngài dạy trong một ngôn ngữ trực tiếp mà người ta có thể tức thời áp dụng cho kinh nghiệm nội tâm của chính mình. Sự hiểu biết bao la của ngài, sự ấm áp của những ban phước của ngài, và chiều sâu của chứng ngộ nội tâm nơi ngài đã cho những lời dạy của ngài một phẩm tính hoàn toàn khác với những vị thầy khác.

Với vẻ bên ngoài, y phục, và cách ngài cư xử với những người không biết ngài là ai, không có gì phân biệt Patrul Rinpoche với một người hoàn toàn bình thường. Những người tình cờ gặp ngài không bao giờ đoán ra ngài là một đại lama. Cũng có khi, những lama khác không nhận ra ngài, cho ngài lời dạy về chính những tác phẩm của ngài. Ngài không giữ một sở hữu nào cả. Hoàn toàn thờ ơ với những công việc của thế giới này, ngài không hề nhận cúng dường. Nếu người ta khăng khăng biếu tặng ngài những thứ giá trị – bạc, vàng hay những thứ khác – ngài bỏ chúng lại và ra đi, vô tư lựmột mình. Khi ngài ở đâu, không có chương trình định sẵn, và khi bỏ đi, ngài không có chỗ đến đặc biệt nào. Ngài chỉ ra đi với cây gậy đi đường, những y áo ngài mặc, một bị vải nhỏ đựng cái ấm đất nấu trà, và một bản sao của Bồ Tát Hạnh. Ngài dừng lại bất cứ chỗ nào ngài muốn, trong rừng, hang động, hay một nơi nào hẻo lánh, trong một thời gian không định trước.

Những người nào có thời gian ở với ngài nói rằng ngài chỉ nói về Pháp. Ngài chỉ dạy, hoặc kể những câu chuyện từ cuộc đời của những đại lama xưa; nhưng không ai đã từng nghe ngài bàn về những chuyện đã xảy ra trong thế gian bình thường. Ngài hiếm khi nói không chủ đề, và khi nói thì thẳng thắn và trực tiếp, không dễ chịu cho những ai mong sự tâng bốc. Sự hiện diện của ngài gây ra nể và kính, ngay cả sợ hãi lúc ban đầu, và chỉ những người cần thiết thực sự sự hướng dẫn tâm linh của ngài mới đến gần ngài. Nhưng tất cả những người kiên trì sẽ rất khó mà rời khỏi ngài.

Patrul Rinpoche còn được tất cả những vị thầy đương thời lừng lẫy nhất nhớ tới cho đến ngày nay như là một thiền sư lỗi lạc đã đạt đến chứng ngộ thực tại tuyệt đối không thể nghi ngờ gì. Đức Dalai Lama thường công khai tán dương những lời dạy về Bồ đề tâm của Patrul Rinpoche, mà chính ngài giữ gìn và truyền thọ. Dilgo Khyentse Rinpoche nhắc đến Patrul Rinpoche như là một kiểu mẫu hoàn hảo của một người thực hành cái thấy, thiền định và hành động của Dzogchen (Đại Toàn Thiện), hay Atiyoga.

Patrul Rinpoche hiểu biết một cách thực hành và thuộc lòng bộ Bảy Kho Tàng nổi tiếng và những tác phẩm khác của đạo sư Gyalwa Longchenpa thế kỷ mười bốn, người mà ngài xem là thẩm quyền tối hậu về những cấp độ khác nhau của con đường Phật giáo. Thỉnh thoảng, ẩn dật trong một cái hang hay một nơi ẩn cư thiếu thốn, ngài viết một bản văn của chính ngài, và hầu hết những luận sâu xanguyên thủy ấy về sau được tập hợp thành sáu bộ những tác phẩm của ngài. Tác phẩm phổ thông nhất, Những Lời Nói của vị Thầy Hoàn Hảo của Tôi, diễn tả trong một phong cách sắc bén và bản địa với một sự phong phú những giai thoại những thực hành nền tảng của truyền thống Nyingmapa như được dạy bởi Jigme Gyelwai Nyugu, và được những đạo sưđệ tử của mọi phái Phật giáo Tây Tạng tôn kính.

Patrul Rinpoche dạy cho những đệ tử của tất cả mọi phái một cách không thiên vị và – cùng với Jamgon Kongtrul Lodroš Thaye, Jamyang Khyentse Wangpo và Lama Mipham – đã đóng một vai trò chủ chốt trong sự phát triển của phong trào không phân phái nở rộ vào thế kỷ mười chín, làm sống lại toàn bộ Phật giáo Tây Tạng vào một thời điểm mà nhiều dòng phái và thực hành trở nên hiếm hoi và đang ở ngưỡng cửa của sự tắt mất. Là một người cổ vũ mạnh mẽ cho những niềm vui của cô tịch và sự đơn giản của cuộc đời xuất gia, ngài luôn luôn nhấn mạnh đến sự vô ích phù phiếm của nỗ lựctheo đuổi về thế gian.

Năm 1885, Patrul Rinpoche bấy giờ bảy mươi bảy tuổi, trở về nơi sinh của mình ở Dzachuka, và ngài ở đó cho đến khi chết vào năm 1887. Những giờ phút cuối cùng của ngài được thị giả Sonam Tsering diễn tả lại:

Vào ngày 17, ngài dùng một chút thức ăn và tụng đọc Tantra Sám Hối. Rồi ngài làm một số lễ lạy, thực hành yoga năm phần, và một thực hành để cởi mở những kinh mạch ở trung tâm trái tim. Sáng sớm hôm sau, ngài dùng sữa đông và uống ít trà. Khi mặt trời bắt đầu chiếu sáng, ngài cởi áo quần, ngồi thẳng, xếp đùi trong tư thế kim cương và để hai bàn tay trên đầu gối. Khi tôi khoác một ít áo quần lại trên người ngài, ngài không nói gì cả. Bấy giờ có ba chúng tôi – Kungyam, y sĩ và tôi. Sau đó ngài nhìn thẳng vào không gian, búng ngón tay của cả hai bàn tay, rồi để dưới áo trong ấn đại địnhđi vào khoảng không sáng ngời bên trong của sự thanh tịnh bổn nhiên, sự thăng hoa toàn hảo của cái chết.

Trong nhiều đệ tử quan trọng của Patrul Rinpoche có Dodrupchen Rinpoche thứ ba, Nyoshul Lungthok Tenpai Nyima, Adzom Drukpa, Mipham Rinpoche, Tertošn Sogyal, Dzochen Rinpoche thứ năm, Katok Situ Rinpoche thứ nhì, Khenpo Kunzang Pelden, Khenpo Yonga và Khenpo Shenga. Nhiều đại lama ngày nay giữ dòng phái trực tiếp của Patrul Rinpoche, chỉ cách một hay hai thế hệ. Chính ngài Dilgo Khyentse Rinpoche đã được Mipham Rinpoche ban phước lúc còn là một trẻ nhỏ và đã nhận những chỉ dạy từ một số đệ tử trực tiếp này của Patrul Rinpoche. Bởi thế những lời dạy, những ban phước gia bịthần lực của ngài vẫn còn rất nhiều với chúng ta ngày nay.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7356)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20716)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14549)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19611)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14479)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28698)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21970)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21660)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23428)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23221)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19865)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19979)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15435)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22571)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22901)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30521)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33248)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27098)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17772)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24396)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14656)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant