Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

29 Tháng Mười 202120:00(Xem: 2464)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

Holly Gayley [1]
  Pema Jyana


bo tat van thu

Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok. Cha Bà là Terton (vị phát lộ kho tàng) lỗi lạc của gia đình Apang, vị được gọi là Apang Terchen Pawo Choying Dorje (1895-1945), tức Orgyen Trinle Lingpa. Mẹ Bà, Damtsik Drolma, là con gái của một vị thủ lĩnh địa phương và được công nhậnhóa hiện về khẩu của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Vô số tiên tri liên quan đến sự chào đời của Bà Tare Lhamo được đưa ra bởi những vị lỗi lạc như Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904-1987)[2]. Dựa trên những tiên tri như vậy, Bà Tare Lhamo được công nhận khi còn nhỏ là hóa hiện của hai nhân vật trong vùng thuộc thế hệ trước, một nam và một nữ, lần lượt là Tra Gelong Tsultrim Dargye (1866-1937) và Sera Khandro (1892-1940)[3], vị cũng được biết đến là Uza Khandro Dewe Dorje. Sự công nhận thứ hai là hơi lạ thường, bởi Sera Khandro vẫn chưa viên tịch cho đến hai năm sau khi Bà Tare Lhamo chào đời. Không có ghi chép nào về việc Bà Tare Lhamo thọ nhận hay trao truyền các giáo lý của những vị này, cũng như việc Bà được chính thức tấn phong là một hóa hiện của vị nào. Khi còn là một đứa bé, Bà nhận được một vài trong số những tài sản của Tra Gelong và được mời đến rèn luyện tại Tu viện của Ngài như một vị Ni. Tuy nhiên, Bà từ chối và quyết định sống như một chủ hộ và tiếp tục sống cùng gia đình. Giống như mẹ, Bà cũng được xác nhận là một hóa hiện của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Thời trẻ, Bà nghiên cứu với cha – Apang Terchen, thậm chí phát lộ một kho tàng với cha khi còn là một đứa bé. Từ Ngài, Bà thọ trao truyền cho Nyingtik Yabshi và toàn bộ các phát lộ kho tàng của Ngài trước khi Ngài viên tịch vào năm 1945, khi Bà chỉ mới chín tuổi (theo cách tính Tây Tạng, tám tuổi theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo phong tục Nyingma phổ biến của việc trao truyền giáo lý qua gia đình, Bà Tare Lhamo cùng các anh em trai trở thành những vị nắm giữ truyền thừa của cha. Các anh em trai của Bà, tất cả đều được công nhận là những đạo sư tái sinh, là Gyurme Dorje (sinh năm 1928), Wangchen Nyima (sinh năm 1931) và Thubten Chokyi Nyima (sinh khoảng năm 1939). Ngài Wangchen Nyima tiếp nối cha, trở thành người đứng đầu của Tsimda Gompa, Tu viện mà Apang Terchen thành lập năm 1925 ở Markhok trong Hạt Padma của Golok.

Trong phần còn lại của thời trẻ và đầu tuổi trưởng thành, Bà Tare Lhamo du hành cùng mẹ – Damtsik Drolma, đến các thánh địa ở Golok và thọ nhận giáo lý từ những đạo sư lỗi lạc thời ấy. Hai vị thầy chính yếu của Bà là Dodrubchen Rinpoche thứ tư – Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) và Dzongter Kunzang Nyima (1904-1958), cháu nội và cũng là hóa hiện về khẩu của vị Terton lừng danh – Dudjom Lingpa (1835-1904). Từ Ngài Rigdzin Jalu Dorje, Bà thọ nhận những chỉ dẫn khẩu truyền về Nyingtik Yabshi. Từ Dzongter Kunzang Nyima, Bà thọ quán đỉnh, sự cho phépchỉ dẫn cho toàn bộ kho tàng của Ngài, cũng như của Dudjom Lingpa, và Ngài bổ nhiệm Bà là vị trông giữ kho tàng (chodak) cho pho Yeshe Tsogyal của Ngài. Từ trẻ, theo tiểu sử của Bà, Bà đã bắt đầu phát lộ các kho tàng dưới dạng những giỏ và cuộn kinh vàng.

Năm hai mươi tuổi (theo cách tính Tây Tạng), Bà gia nhập khu trại của Dzongter Kunzang Nyima ở Rizab và kết hôn với con trai của Ngài, Mingyur Dorje (1934-1959), tức Pema Osel Nyingpo. Trong khoảng thời gian ngắn bên nhau, họ có một người con trai, Wangchuk Dorje, thường được gọi là Tulku Ngaro. Trong quá trình biến đổi cộng sản ở Golok vào cuối những năm 1950, theo luật lệ của Cộng sản Trung Quốc, Tulku Milo và ba anh em trai của Bà Tare Lhamo bị giam giữ, cùng với nhiều nhân vật tôn giáo khác, nơi mà cuối cùng họ đều qua đời. Bà Tare Lhamo không bị giam cầm, có lẽ bởi giới tính, cũng như nhiều đạo sư trẻ tuổi hơn, những vị chỉ là thiếu niên khi ấy. Lúc bắt đầu Cách mạng Văn hóa (1966-76), con trai Bà qua đời vì bệnh tật và sau đấy, mẹ Bà cũng qua đời vì tuổi cao, để lại Tare Lhamo đơn độc.

Năm 1978, Bà Tare Lhamo khởi xướng một sự hợp tác với Namtrul Rinpoche Jigme Phuntsok (1944-2011), một đạo sư kém Bà sáu tuổi, vị sống ở vùng biên giới của Hạt Serta thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau hơn một năm trao đổi thư từ, Bà rời quê nhà Hạt Padma thuộc tỉnh Thanh Hải để đến gia nhập cùng với Namtrul Rinpoche ở Serta, nơi mà hai vị sống cùng nhau đến khi Bà qua đời vào năm 2002. Cùng nhau, họ xây dựng lại Tu viện Nyenlung ở quê nhà của Namtrul Rinpoche, cùng với Rigdzin Nyima, một đạo sư đã giữ địa điểm này như một ẩn thất và sống gần bên hai vị. Mặc dù Bà Tare Lhamo từ bỏ đặc quyền là người đứng đầu của Tsimda Gompa bằng cách rời Hạt Padma, Bà và Namtrul Rinpoche vẫn tiếp tục là những vị thầy căn bản ở đó, và Bà đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại Tu viện.

Năm 1980, Khenpo Jigme Phuntsok (1933-2004)[4] ban cho Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche trao truyền về tuyển tập kho tàng của Apang Terchen, điều mà Bà vốn đã thọ trực tiếp từ cha khi còn là một đứa bé, và khuyến khích họ truyền bá rộng khắp. Sau đấy năm 1986, Ngài cho phép họ trở thành Terton và ban trao truyền cho tuyển tập kho tàng của Lerab Lingpa (1856-1926)[5], tiền thân của chính Ngài. Năm 1987, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche gia nhập đoàn tùy tùng khoảng 10.000 người của Ngài trong chuyến hành hương lịch sử đến Ngũ Đài Sơn, thánh địa của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà hai vị đã phát lộ một nghi quỹ Diệu Âm Sarasvati.

Năm 1990, Dola Chokyi Nyima Rinpoche ban cho họ trao truyền về tuyển tập kho tàng của cha Ngài – Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe, và cho phép họ truyền bá chúng. Không lâu sau, Bà Tare Lhamo thu hút sự chú ý quốc tế khi công nhận con trai của Ngài Dola Chokyi Nyima là một trong hai vị tái sinh của Dudjom Rinpoche.

Trong suốt thập niên 80 và 90, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche đã phát lộ các kho tàng cùng nhau và giảng dạy rộng rãi, khắp vùng Golok và hơn thế. Về sự giảng dạy, hai vị đã nắm giữ và trao truyền ba tuyển tập kho tàng chính yếu: tuyển tập kho tàng của chính hai vị trong mười hai quyển, tuyển tập của cha Bà – Apang Terchen trong mười sáu quyển, và của Đức Jigdral Yeshe Dorje. Hai vị đã tổ chức một Pháp hội thường niên tại Nyenlung mỗi mùa hè, thu hút hơn một nghìn môn đồ tham dự kể từ những năm 90, và đóng vai trò là vị quản lý cho nhiều Tu viện khác ở Golok và các vùng lân cận, giúp gây quỹ cho các dự án tái thiết, tài trợ nghi lễthiết lập thực hành nghi lễ, trong khi thường xuyên viếng thăm để giảng dạy. Hai vị cũng đặc biệt yêu thích và thúc đẩy sử thi Gesar.

Cuối năm 2000, Bà Tare Lhamo lâm bệnh và năm sau, Bà được chẩn đoán mắc một căn bệnh, điều có lẽ là ung thư thực quản. Các biện pháp khác nhau về nghi lễthực tiễn được thực hiện để cố gắng chữa lành, bao gồm cả việc dành thời gian ở các bệnh viện tại Barkham và Thành Đô. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 3 năm 2002 ở Thành Đô và nhục thân Bà được đưa về Nyenlung không lâu sau để cử hành tang lễ thích hợp. Namtrul Rinpoche tiếp tục quản lý và phát triển cộng đồng tâm linh trong gần một thập niên cho đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2011.

Truyền thừa Giáo Pháp của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được trao lại cho con trai của Ngài – Tulku Lhaksam, vị hiện là người đứng đầu của Tu viện Nyenlung và là vị trì giữ truyền thừa cho các giáo lý kho tàng của hai vị và của Apang Terchen. Bên cạnh việc là tái sinh của Đức Zhichen Kunzang Nyima, Tulku Lhaksam cũng được xem là vị tái sinh của Tulku Ngaro, người con trai đã chết trẻ của Bà Tare Lhamo. Ngày nay, di cốt của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được thờ bên cạnh nhau trong một phòng thờ trong khuôn viên gia đình ở Nyenlung.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Tare-Lhamo/8651.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 



[1] Holly Gayley là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) trong Phòng Nghiên Cứu Tôn Giáo tại Đại Học Colorado, Boulder.

[2] Về Dudjom Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35008/tieu-su-van-tat-dudjom-rinpoche-jigdral-yeshe-dorje-1904-1987-.

[3] Về Sera Khandro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a36670/tieu-su-van-tat-duc-sera-khandro-kunzang-dekyong-wangmo-1892-1940-.

[4] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a27321/tieu-su-van-tat-duc-kyabje-jigme-phuntsok-rinpoche.

[5] Về Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35557/tieu-su-van-tat-terchen-lerab-lingpa-terton-sogyal-1856-1926-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3914)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3419)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4199)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4274)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2847)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3277)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3381)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3297)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3440)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4402)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3448)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9606)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 7022)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7864)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9414)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4504)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5193)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13470)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11299)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11612)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10911)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9337)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13811)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14969)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10533)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10658)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9910)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10193)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10524)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10614)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10537)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10115)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9836)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13549)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16327)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13482)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9613)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10563)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10759)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12288)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 12029)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14414)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15423)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17783)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15047)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16549)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14662)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18353)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18514)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12866)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13431)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 18606)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant