Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

29 Tháng Mười 202120:00(Xem: 2447)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

Holly Gayley [1]
  Pema Jyana


bo tat van thu

Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok. Cha Bà là Terton (vị phát lộ kho tàng) lỗi lạc của gia đình Apang, vị được gọi là Apang Terchen Pawo Choying Dorje (1895-1945), tức Orgyen Trinle Lingpa. Mẹ Bà, Damtsik Drolma, là con gái của một vị thủ lĩnh địa phương và được công nhậnhóa hiện về khẩu của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Vô số tiên tri liên quan đến sự chào đời của Bà Tare Lhamo được đưa ra bởi những vị lỗi lạc như Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904-1987)[2]. Dựa trên những tiên tri như vậy, Bà Tare Lhamo được công nhận khi còn nhỏ là hóa hiện của hai nhân vật trong vùng thuộc thế hệ trước, một nam và một nữ, lần lượt là Tra Gelong Tsultrim Dargye (1866-1937) và Sera Khandro (1892-1940)[3], vị cũng được biết đến là Uza Khandro Dewe Dorje. Sự công nhận thứ hai là hơi lạ thường, bởi Sera Khandro vẫn chưa viên tịch cho đến hai năm sau khi Bà Tare Lhamo chào đời. Không có ghi chép nào về việc Bà Tare Lhamo thọ nhận hay trao truyền các giáo lý của những vị này, cũng như việc Bà được chính thức tấn phong là một hóa hiện của vị nào. Khi còn là một đứa bé, Bà nhận được một vài trong số những tài sản của Tra Gelong và được mời đến rèn luyện tại Tu viện của Ngài như một vị Ni. Tuy nhiên, Bà từ chối và quyết định sống như một chủ hộ và tiếp tục sống cùng gia đình. Giống như mẹ, Bà cũng được xác nhận là một hóa hiện của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Thời trẻ, Bà nghiên cứu với cha – Apang Terchen, thậm chí phát lộ một kho tàng với cha khi còn là một đứa bé. Từ Ngài, Bà thọ trao truyền cho Nyingtik Yabshi và toàn bộ các phát lộ kho tàng của Ngài trước khi Ngài viên tịch vào năm 1945, khi Bà chỉ mới chín tuổi (theo cách tính Tây Tạng, tám tuổi theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo phong tục Nyingma phổ biến của việc trao truyền giáo lý qua gia đình, Bà Tare Lhamo cùng các anh em trai trở thành những vị nắm giữ truyền thừa của cha. Các anh em trai của Bà, tất cả đều được công nhận là những đạo sư tái sinh, là Gyurme Dorje (sinh năm 1928), Wangchen Nyima (sinh năm 1931) và Thubten Chokyi Nyima (sinh khoảng năm 1939). Ngài Wangchen Nyima tiếp nối cha, trở thành người đứng đầu của Tsimda Gompa, Tu viện mà Apang Terchen thành lập năm 1925 ở Markhok trong Hạt Padma của Golok.

Trong phần còn lại của thời trẻ và đầu tuổi trưởng thành, Bà Tare Lhamo du hành cùng mẹ – Damtsik Drolma, đến các thánh địa ở Golok và thọ nhận giáo lý từ những đạo sư lỗi lạc thời ấy. Hai vị thầy chính yếu của Bà là Dodrubchen Rinpoche thứ tư – Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) và Dzongter Kunzang Nyima (1904-1958), cháu nội và cũng là hóa hiện về khẩu của vị Terton lừng danh – Dudjom Lingpa (1835-1904). Từ Ngài Rigdzin Jalu Dorje, Bà thọ nhận những chỉ dẫn khẩu truyền về Nyingtik Yabshi. Từ Dzongter Kunzang Nyima, Bà thọ quán đỉnh, sự cho phépchỉ dẫn cho toàn bộ kho tàng của Ngài, cũng như của Dudjom Lingpa, và Ngài bổ nhiệm Bà là vị trông giữ kho tàng (chodak) cho pho Yeshe Tsogyal của Ngài. Từ trẻ, theo tiểu sử của Bà, Bà đã bắt đầu phát lộ các kho tàng dưới dạng những giỏ và cuộn kinh vàng.

Năm hai mươi tuổi (theo cách tính Tây Tạng), Bà gia nhập khu trại của Dzongter Kunzang Nyima ở Rizab và kết hôn với con trai của Ngài, Mingyur Dorje (1934-1959), tức Pema Osel Nyingpo. Trong khoảng thời gian ngắn bên nhau, họ có một người con trai, Wangchuk Dorje, thường được gọi là Tulku Ngaro. Trong quá trình biến đổi cộng sản ở Golok vào cuối những năm 1950, theo luật lệ của Cộng sản Trung Quốc, Tulku Milo và ba anh em trai của Bà Tare Lhamo bị giam giữ, cùng với nhiều nhân vật tôn giáo khác, nơi mà cuối cùng họ đều qua đời. Bà Tare Lhamo không bị giam cầm, có lẽ bởi giới tính, cũng như nhiều đạo sư trẻ tuổi hơn, những vị chỉ là thiếu niên khi ấy. Lúc bắt đầu Cách mạng Văn hóa (1966-76), con trai Bà qua đời vì bệnh tật và sau đấy, mẹ Bà cũng qua đời vì tuổi cao, để lại Tare Lhamo đơn độc.

Năm 1978, Bà Tare Lhamo khởi xướng một sự hợp tác với Namtrul Rinpoche Jigme Phuntsok (1944-2011), một đạo sư kém Bà sáu tuổi, vị sống ở vùng biên giới của Hạt Serta thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau hơn một năm trao đổi thư từ, Bà rời quê nhà Hạt Padma thuộc tỉnh Thanh Hải để đến gia nhập cùng với Namtrul Rinpoche ở Serta, nơi mà hai vị sống cùng nhau đến khi Bà qua đời vào năm 2002. Cùng nhau, họ xây dựng lại Tu viện Nyenlung ở quê nhà của Namtrul Rinpoche, cùng với Rigdzin Nyima, một đạo sư đã giữ địa điểm này như một ẩn thất và sống gần bên hai vị. Mặc dù Bà Tare Lhamo từ bỏ đặc quyền là người đứng đầu của Tsimda Gompa bằng cách rời Hạt Padma, Bà và Namtrul Rinpoche vẫn tiếp tục là những vị thầy căn bản ở đó, và Bà đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại Tu viện.

Năm 1980, Khenpo Jigme Phuntsok (1933-2004)[4] ban cho Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche trao truyền về tuyển tập kho tàng của Apang Terchen, điều mà Bà vốn đã thọ trực tiếp từ cha khi còn là một đứa bé, và khuyến khích họ truyền bá rộng khắp. Sau đấy năm 1986, Ngài cho phép họ trở thành Terton và ban trao truyền cho tuyển tập kho tàng của Lerab Lingpa (1856-1926)[5], tiền thân của chính Ngài. Năm 1987, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche gia nhập đoàn tùy tùng khoảng 10.000 người của Ngài trong chuyến hành hương lịch sử đến Ngũ Đài Sơn, thánh địa của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà hai vị đã phát lộ một nghi quỹ Diệu Âm Sarasvati.

Năm 1990, Dola Chokyi Nyima Rinpoche ban cho họ trao truyền về tuyển tập kho tàng của cha Ngài – Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe, và cho phép họ truyền bá chúng. Không lâu sau, Bà Tare Lhamo thu hút sự chú ý quốc tế khi công nhận con trai của Ngài Dola Chokyi Nyima là một trong hai vị tái sinh của Dudjom Rinpoche.

Trong suốt thập niên 80 và 90, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche đã phát lộ các kho tàng cùng nhau và giảng dạy rộng rãi, khắp vùng Golok và hơn thế. Về sự giảng dạy, hai vị đã nắm giữ và trao truyền ba tuyển tập kho tàng chính yếu: tuyển tập kho tàng của chính hai vị trong mười hai quyển, tuyển tập của cha Bà – Apang Terchen trong mười sáu quyển, và của Đức Jigdral Yeshe Dorje. Hai vị đã tổ chức một Pháp hội thường niên tại Nyenlung mỗi mùa hè, thu hút hơn một nghìn môn đồ tham dự kể từ những năm 90, và đóng vai trò là vị quản lý cho nhiều Tu viện khác ở Golok và các vùng lân cận, giúp gây quỹ cho các dự án tái thiết, tài trợ nghi lễthiết lập thực hành nghi lễ, trong khi thường xuyên viếng thăm để giảng dạy. Hai vị cũng đặc biệt yêu thích và thúc đẩy sử thi Gesar.

Cuối năm 2000, Bà Tare Lhamo lâm bệnh và năm sau, Bà được chẩn đoán mắc một căn bệnh, điều có lẽ là ung thư thực quản. Các biện pháp khác nhau về nghi lễthực tiễn được thực hiện để cố gắng chữa lành, bao gồm cả việc dành thời gian ở các bệnh viện tại Barkham và Thành Đô. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 3 năm 2002 ở Thành Đô và nhục thân Bà được đưa về Nyenlung không lâu sau để cử hành tang lễ thích hợp. Namtrul Rinpoche tiếp tục quản lý và phát triển cộng đồng tâm linh trong gần một thập niên cho đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2011.

Truyền thừa Giáo Pháp của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được trao lại cho con trai của Ngài – Tulku Lhaksam, vị hiện là người đứng đầu của Tu viện Nyenlung và là vị trì giữ truyền thừa cho các giáo lý kho tàng của hai vị và của Apang Terchen. Bên cạnh việc là tái sinh của Đức Zhichen Kunzang Nyima, Tulku Lhaksam cũng được xem là vị tái sinh của Tulku Ngaro, người con trai đã chết trẻ của Bà Tare Lhamo. Ngày nay, di cốt của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được thờ bên cạnh nhau trong một phòng thờ trong khuôn viên gia đình ở Nyenlung.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Tare-Lhamo/8651.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 



[1] Holly Gayley là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) trong Phòng Nghiên Cứu Tôn Giáo tại Đại Học Colorado, Boulder.

[2] Về Dudjom Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35008/tieu-su-van-tat-dudjom-rinpoche-jigdral-yeshe-dorje-1904-1987-.

[3] Về Sera Khandro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a36670/tieu-su-van-tat-duc-sera-khandro-kunzang-dekyong-wangmo-1892-1940-.

[4] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a27321/tieu-su-van-tat-duc-kyabje-jigme-phuntsok-rinpoche.

[5] Về Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35557/tieu-su-van-tat-terchen-lerab-lingpa-terton-sogyal-1856-1926-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21327)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22093)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16824)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13392)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22774)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18977)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18434)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21586)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 19988)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14035)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14985)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17209)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15851)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12951)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13115)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22600)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19321)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37614)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17848)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14549)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19658)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14606)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15901)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29772)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17729)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18490)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19888)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19078)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18526)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20671)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19386)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18506)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29809)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21578)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20787)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26289)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52086)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21754)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 34982)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17225)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17997)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19553)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17442)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30772)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19157)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19512)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19732)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19358)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58719)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19744)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19088)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15081)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33000)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17440)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19081)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 22929)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16586)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16434)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16457)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22939)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant