Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Về Tâm Yếu Bốn Phần (nyingtik Yabzhi) Và Tâm Yếu Cõi Giới Bao La (longchen Nyingtik)

18 Tháng Bảy 202318:54(Xem: 922)
Tổng Quan Về Tâm Yếu Bốn Phần (nyingtik Yabzhi) Và Tâm Yếu Cõi Giới Bao La (longchen Nyingtik)
Tổng Quan Về Tâm Yếu Bốn Phần (nyingtik Yabzhi)
Tâm Yếu Cõi Giới Bao La (longchen Nyingtik)

Dezhung Rinpoche và Dilgo Khyentse Rinpoche[1] soạn
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

Bước Vào Con Đường Kim Cương Thừa

Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu], Padmasambhava [Liên Hoa Sinh] và Vairotsana, các vị tiên phong của giáo lý Đại Viên Mãn [Dzogchen] ở xứ Tây Tạng. Những giáo lýTôn giả Vô Cấu Hữu trao cho vua Pháp Trisong Detsen và Nyang Tingdzin Zangpo được nhắc đến là truyền thống truyền miệng (Nyengyu). Những giáo lý được trao cho Be Lodro Wangchuk và Drom Rinchen Bar được nhắc đến là truyền thống kinh văn. Những giáo lý chôn giấu trong Chùa Mũ ở U được Ngài Dangma Lhundrup rút ra. Ngài cũng thọ nhận truyền thống truyền miệng và như thế, Kama và Terma được kết hợp thành một dòng chảy duy nhất. Ngài đã dạy Chetsun Senge Wangchuk, vị cũng phát lộ bốn quyển kho tàng sâu xa tại Chimphu và được đích thân Tôn giả Vô Cấu Hữu dẫn dắt trong những linh kiến. Dòng truyền thừa xuất hiện theo cách này là (1) Tâm Yếu Vô Cấu Hữu (Vima Nyingtik), mà tinh túy của chúng là (2) Cực Tinh Túy Của Đạo Sư (Lama Yangtik). Hai [giáo lý] này được nhắc đến là các bản văn mẹcon của Tâm Yếu Vô Cấu Hữu.

Guru Rinpoche dạy (3) Tâm Yếu Không Hành Nữ (Khandro Nyingtik) cho hàng trăm nghìn Không Hành Nữ, đứng đầu là Yeshe Tsogyal, tại Zhoto Tidro[2]. Hơn thế nữa, Ngài Pema Ledreltsal thọ nhận giáo lý này như một kho tàng. Điều này được nhắc đến như là [bản văn] mẹ. Những điểm sâu xatrọng yếu của nó nằm trong (4) Cực Tinh Túy Của Không Hành Nữ (Khandro Yangtik), một kho tàng tâm của Tôn giả Longchenpa[3], điều được nhắc đến như là con.

Cực Tinh Túy Sâu Xa (Zabmo Yangtik) của Tôn giả Longchenpa được xem là bản toát yếu của cả hai Tâm Yếu. Với môn đồ Nyingma nói chung, những phần này cùng nhau được biết đến chung là Tâm Yếu Bốn Phần (Nyingtik Yabzhi).

Sau đây là một cách tính khác, được Ngài Katok Rigdzin Tsewang Norbu và những vị khác ủng hộ: mẹ và con của Tâm Yếu Vô Cấu Hữu được tính riêng biệt; tiếp theo, mẹ và con của Tâm Yếu Không Hành Nữ được tính là một và như thế, người ta thêm vào Tâm Yếu Kim Cương Tát Đỏa của Kunkyong Lingpa, tổng cộng tạo thành bốn [phần]. Truyền thừa chính yếu của Tâm Yếu Kim Cương Tát Đỏa đến từ Tôn giả Vairotsana.

Hơn thế nữa, Ngài Karmapa Rangjung Dorje cũng có linh kiến về Tôn giả Vô Cấu Hữu; trên nền tảng đó, Ngài sắp xếp Tâm Yếu Karma[pa] (Karma Nyingtik). Với hầu hết môn đồ Kagyu, phần này sau đó đã thay thế Tâm Yếu Kim Cương Tát Đỏa để tạo thành Tâm Yếu Bốn Phần.

Lịch Sử Vĩ Đại Của Tâm Yếu Vô Cấu Hữu nói rằng:

Sinh lựctinh túy của ý định trí tuệ của các bản văn mẹ và con trong Tâm Yếu Vô Cấu Hữu là Tâm Yếu Chetsun (Chetsun Nyingtik).

Cực Tinh Túy Của Đạo Sư bao gồm Thành Tựu Đạo Sư Vô Cấu Hữu (Vima Ladrub), một thực hành trường thọ dựa trên vị Tôn thiền định Vô Lượng Thọ và một nghi quỹ ngắn gọn về Không Hành Nữ Krodhakali, nhưng ngoài ra, không có những pho tỉ mỉ về các thực hành giai đoạn sinh khởi. Cũng có một thực hành sơ khởi phổ thông do Đức Khyentse Wangpo soạn, điều tuân theo truyền thống Mindrolling.

Về cả bản văn mẹ và con của Tâm Yếu Vô Cấu Hữu, có bốn quán đỉnh: tỉ mỉ, không tỉ mỉ, rất không tỉ mỉ và cực kỳ không tỉ mỉ. Có truyền thống ban các quán đỉnh cho pho mẹ và con riêng biệt. Truyền thống quán đỉnh cho Cực Tinh Túy Của Đạo Sưtruyền thống giải thích theo truyền thừa xa cho sự bình giảng thêm về cả cắt đứt hoàn toàn (Trekchod) và trực tiếp nhảy qua (Togal), Cõi Giới Vĩ Đại Của Hư Không[4], thứ tồn tại ở Kham, và truyền thừa gần sau này của Khyentse [Wangpo] Rinpoche[5] được kết hợp thành một dòng chảy duy nhất trong những luận giải của Khenpo Ngaga[6].

Theo Minling Terchen[7], bốn quán đỉnh của Cực Tinh Túy Của Đạo Sư có thể thay thế cho [các quán đỉnh] khác. Ngài kết hợp những chỉ dẫn của các bản văn mẹ và con, như trong luận giải Con Đường Xuất Sắc Của Đại Lạc do Jetsun Mingyur Paldron, con gái Ngài, soạn. Các luận giải căn bản này về Cực Tinh Túy Của Đạo Sư được nhắc đến như là ba chỉ dẫn về ý nghĩa[8].

Sau đấy, Đức Khyentse [Wangpo] và [Tôn giả Jamgon] Kongtrul cùng nhau khởi xướng truyền thừa luận giải về các bản văn mẹ và con của Tâm Yếu Vô Cấu Hữu được gọi là Những Từ Vô Cấu Nhiễm, điều do chính Kongtrul Rinpoche soạn[9].

Về các quán đỉnh cho Tâm Yếu Không Hành Nữ, người ta được chín muồi nhờ quán đỉnh biểu tượng của Không Hành Nữ, quán đỉnh bình, quán đỉnh bí mật, quán đỉnh trí tuệ, quán đỉnh ngữ, quán đỉnh đạo sư, quán đỉnh về sự hiển bày mãnh liệt của giác tính, quán đỉnh Không Hành Nữ, sự chấp nhận để hành động vì lợi lạc của chúng sinh khác, sự giao phó các giáo lýquán đỉnh liên quan đến chư Hộ Pháp. Có một thực hành giai đoạn sinh khởi tỉ mỉ về chư Tôn an bìnhphẫn nộ và một thực hành đạo sư tỉ mỉ cùng với các nghi quỹ riêng cho Tám Hóa Hiện. Luận giải chính yếu được Minling Terchen viết. Ngài Khyentse Wangpo cũng phát lộ một nghi quỹ đạo sư, Thực Hành Tâm Đạo Sư Được Gia Trì, thứ giống như một kho tàng được khám phá lại.

Về Tâm Yếu Vô Cấu Hữu, Đức Vô Cấu Hữu được cho là hóa hiện không gián đoạn và có bảy hóa hiện tuần tự. Minling Terchen và Ngài Jigme Lingpa đều có những linh kiến về Tôn giả Longchenpa. Khyentse Wangpo Rinpoche cũng sở hữu truyền thừa gần về Tâm Yếu Vô Cấu Hữu và Tâm Yếu Không Hành Nữ. Kim Cương Trì Jamgon Khyentse Tulku Chokyi Lodro cũng kết hợp các trao truyền cho truyền thống quán đỉnhchỉ dẫn của cả Minling Terchen và Ngài Jigme Lingpa.

Chư vị bảo vệ cho Tâm Yếu Vô Cấu Hữu là Ekajati, Za Rahula và Vajrasadhu[10]. Về Tâm Yếu Không Hành Nữ và Cực Tinh Túy Sâu Xa, đó là Sokdrup Nakpo và Dorje Yudronma.

Cuốn Giáo Khoa Chỉ Dẫn Yeshe Lama của Ngài Jigme Lingpa kết hợp ý định trí tuệ của cả Tâm Yếu Vô Cấu Hữu và Tâm Yếu Không Hành Nữ. Khi chúng ta nói về các truyền thừa Tâm Yếu trước và sau, [truyền thừa] trước liên quan đến Tôn giả Longchenpa và sau là Jigme Lingpa.

Từ quan điểm của Kama, các bộ tâm và hư không chủ yếu được Ngài Vairotsana giảng dạy trong khi bộ chỉ dẫn cốt tủy được Tôn giả Vô Cấu Hữu và Đức Liên Hoa Sinh dạy. Thế nhưng trong các kho tàng, cũng có nhiều bản văn của bộ chỉ dẫn cốt tủy được Ngài Vairotsana dạy. Ba bộ của Đại Viên Mãn theo Kama vẫn được tìm thấy hiện nay trong Kho Tàng Chỉ Dẫn Quý Báu[11]. Cũng có một kho tàng của Terton Chokgyur Dechen Lingpa được biết đến là Ba Bộ Đại Viên Mãn.

Một số bản thảo cổ cực kỳ quan trọng, chẳng hạn năm quyển dài bằng mũi tên được tìm thấy trong thư viện của Khyentse Rinpoche ở Dzongsar, Derge.

Chúng ta tìm thấy những trao truyền tỉ mỉ nhất về Đại Viên Mãn trong các kho tàng của Guru Chowang, Rigdzin Godem, Sangye Lingpa, Dorje Lingpa, Pema Lingpa, Karma Lingpa, Kunkyong Lingpa, Jatson Nyingpo, Duddul Dorje, Longsal Nyingpo, Terdak Lingpa, Taksham, Choling, Lhatsun Namkha Jigme, Namcho Mingyur Dorje, Khyentse Wangpo, Chokling và Do Khyentse Yeshe Dorje. Drugu Tokden Shakya Shri cũng có nhiều kho tàng tâm về Đại Viên Mãn; Adzom Drukpa Pawo Dorje cũng vậy; chư vị thuộc về truyền thừa của Đức Khyentse Wangpo và Tôn giả Jamgon Kongtrul. Trong truyền thừa gia đình của Dudjom Lingpa và các con trai của Ngài, cũng có nhiều kho tàng với những phần đặc biệt của giáo lý Đại Viên Mãn. Sau đấy, cũng có truyền thống luận giải của Khyentse Rinpoche về truyền thừa gần của Tâm Yếu Không Hành Nữ và bản văn gốc của kho tàng kết hợp với luận giải Tràng Vàng[12].

Cực Tinh Túy Sâu Xa cũng có bốn quán đỉnhquán đỉnh tỉ mỉ và v.v.

Tâm Yếu Không Hành NữTâm Yếu Vô Cấu Hữu có thể được xem là kho tàng đất trong khi các pho Cực Tinh Túy là kho tàng tâm[13].

TÂM YẾU CÕI GIỚI BAO LA (LONGCHEN NYINGTIK)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22142)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27574)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20734)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14559)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19624)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14499)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20999)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28728)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27272)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22005)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26268)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21679)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23466)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23270)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19877)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21199)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20018)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15447)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26125)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22595)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22930)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33283)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27132)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17807)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24427)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14672)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant