Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Tất cả pháp đồng ý ở một điểm

11 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13031)
19. Tất cả pháp đồng ý ở một điểm

CON ĐƯỜNG CĂN BẢN ĐẾN GIÁC NGỘ

Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của phái Kadam
Nguyên tác: Training the Mind and Cultivating Loving-Kindness by Chošgyam Trungpa 
Nhà xuất bản Shambhala, 1993
Việt dịch: Trùng Hưng - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2001

ĐIỂM NĂM
SỰ ĐÁNH GIÁ VIỆC TU TÂM

ĐIỂM NĂM VÀ THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT

19
Tất cả pháp đồng ý ở một điểm

Ở đây, Pháp không liên hệ gì với danh từ pháp theo nghĩa triết học, hay là “những sự vật như chúng là” ; pháp ở đây chỉ có nghĩa là những giáo lý. Chúng ta có thể nói rằng tất cả mọi giáo lý về căn bản là một cách khuất phục hay làm rơi rụng bản ngã của chúng ta. Và tùy theo bài học khuất phục bản ngã được nắm giữ ở trong chúng ta nhiều bao nhiêu, thì thực tại cũng được hiển lộ với chúng ta nhiều bấy nhiêu. Tất cả các pháp đã được dạy đều nối kết với điều này. Không có pháp nào khác. Không có những giáo lý khác, đặc biệt trong những giáo lý của Phật.

Trong hành trình đặc biệt này hành giả có thể đặt một hệ thống chia độ, và tình trạng của người ấy có thể đo được. Nó cũng giống như hệ thống chia độ của công lý : nếu bản ngã của bạn rất nặng, bạn sa xuống ; nếu bản ngã của bạn nhẹ, bạn nâng lên. Thế nên bãi bỏ chương trình cá nhân bành trướng cái ngã của chúng tađạt đến chương trình phi cá nhân của giác ngộ tùy thuộc vào việc chúng ta “cân nặng” hay rỗng rang bao nhiêu.

Dù những giáo lý tiểu thừa hay đại thừa, chúng đều đồng ý với nhau. Mục đích của tất cả chúng chỉ là chiến thắng bản ngã. Khác đi thì không có mục đích nào trong đó. Bất cứ kinh điển, sớ giải nào về giáo lý Phật giáo bạn có thể đọc, chúng đều nối kết với hiện thể của bạn và được hiểu như là những cách thức để thuần hóa bản ngã của bạn. Đây là một trong những khác biệt chính giữa hữu thầnvô thần. Những truyền thống hữu thần nhắm đến việc xây dựng một loại bản chất cá nhân, để cho bạn có thể bước nhanh và làm kiểu diễn dịch riêng của bạn về những hành động bồ tát giả hiệu. Nhưng trong truyền thống Phật giáo vô thần, chúng ta nói theo lối không có con người riêng biệt, không có những tính chất của bản ngã, và bởi thế có thể biểu hiện một sự diễn dịch rộng lớn hơn nhiều hoạt động bồ tát.

Kiểu diễn dịch tiểu thừa về thuần hóa bản ngã là cắt đứt sự luộm thuộm, ủy mỵtâm thức lang thang bằng sự áp dụng kỷ luật shamatha, hay chánh niệm. Sự thực hành shamatha cắt đứt cơ cấu nền tảng của bản ngã, chính bản ngã này tự duy trì chính nó bằng cách cung cấp những lời nói nhảm nhí thuộc tiềm thức và những tư tưởng lan man. Ngoài ra, nguyên lý vipashyana của sự tỉnh giác cũng cho phép chúng ta cắt đứt bản ngã của chúng ta. Thức tỉnh với toàn thể môi trường chung quanh và đem nó vào trong kỷ luật nền tảng của chúng ta cho phép chúng ta thành ra ít chấp ngã và nhiều tiếp xúc với thế giới quanh chúng ta, thế nên có ít điểm quy chiếu vào “tôi” hay “của tôi”.

Trong đại thừa, khi chúng ta bắt đầu thấu hiểu nguyên lý bồ tát qua thực hành Bồ đề tâm, sự quan tâm của chúng ta thì có nhiều hơn sự ấm áp và khéo léo, thiện xảo. Chúng ta thấu hiểu chúng ta không có gì để bám nữa trong chúng ta, thế nên chúng ta có thể cho đi mọi lúc. Căn cứ của lòng bi như thế là sự không có lãnh địa, không bản ngã chút nào. Nếu bạn như thế, bạn có lòng bi. Bây giờ sự ấm áp, sự có thể dùng được và dịu dàng hơn nữa cũng có mặt. “Tất cả các pháp đều đồng ý ở một điểm” nghĩa là nếu khôngchấp ngã, bấy giờ tất cả các pháp là một, tất cả các giáo lý là một. Đó là lòng bi.

Để có một thái độ thương yêu người nào khác, bạn phải không có một nền tảng nào, căn cứ nào để khởi sự. Khác đi thì bạn trở thành một kẻ mắc chứng yêu lấy bản ngã của mình, cố gắng hấp dẫn người ta chỉ từ sự quyến rũ của bạn, đam mê của bạn hay sự kiêu căng của bạn. Lòng bi khai triển từ tánh Không, hay cái không nền tảng, bởi vì bạn không có gì để bám chấp vào, không có gì để làm với, không dự phóng, không sở đắc cá nhân, không những động cơ phía sau. Bởi thế, bất cứ điều gì bạn làm đều là một công việc sạch sẽ, có thể nói như vậy. Thế nên đại bitánh Không làm việc cùng nhau. Giống như bạn tắm nắng trên bãi biển : một mặt bạn có một cái thấy đẹp đẽ về biển cả, bầu trời và mọi sự, và cũng có ánh nắng mặt trời, hơi nóng và biển cả đến với bạn.

Trong tiểu thừa, bản ngã chúng ta bắt đầu được cắt tóc ; râu ria của nó được cạo sạch. Trong đại thừa, tứ chi của bản ngã được cắt, thế nên không còn tay chân nữa. Chúng ta bắt đầu mở tung thân thể của bản ngã. Bằng cách phát triển Bồ đề tâm tối hậu, chúng ta lấy đi trái tim để cho không có gì tồn tại chút nào. Rồi chúng ta thử dùng đám hổ lốn còn lại, tay, chân, đầu, tim bị cắt đứt, cùng với một số máu. Áp dụng cách tiếp cận bồ tát, chúng ta dùng chúng, chúng ta không vất chúng đi. Chúng ta không muốn làm ô nhiễm thế giới của chúng ta với số bộ phận còn lại của bản ngã. Thay vì thế, chúng ta đem chúng vào con đường của Pháp bằng cách khảo sát chúng và sử dụng chúng. Thế nên bất cứ cái gì xảy ra trong đời bạn đều trở thành một cách thức để đo sự tiến bộ của bạn trên con đường – bạn đã có thể cắt lìa tay chân, thân mình và trái tim bạn được bao nhiêu. Đấy là tại sao châm ngôn này đi cùng với một câu nói khác của các vị thầy Kadam, “Sự rơi rụng của bản ngãhệ thống chia độ đo lường hành giả.” Nếu bạn có nhiều bản ngã, bạn sẽ nặng hơn trên bàn cân này ; nếu bạn có ít bản ngã ; bạn sẽ nhẹ hơn. Đó là sự đo lường thiền địnhtỉnh giác đã được triển khai bao nhiêu, và sự thất niệm đã được chiến thắng bao nhiêu.

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 22101)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27526)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37891)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19585)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14455)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20937)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28661)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21939)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21464)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26213)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21621)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19825)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21151)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15412)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22525)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33206)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27063)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24355)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14640)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant