Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Nếu bạn có thể thực hành ngay cả khi phóng tâm, bạn đã tu hành nhuần nhuyễn.

11 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13251)
22. Nếu bạn có thể thực hành ngay cả khi phóng tâm, bạn đã tu hành nhuần nhuyễn.


CON ĐƯỜNG CĂN BẢN ĐẾN GIÁC NGỘ

Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của phái Kadam
Nguyên tác: Training the Mind and Cultivating Loving-Kindness by Chošgyam Trungpa 
Nhà xuất bản Shambhala, 1993
Việt dịch: Trùng Hưng - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2001
blank
blank

ĐIỂM NĂM
SỰ ĐÁNH GIÁ VIỆC TU TÂM

ĐIỂM NĂM VÀ THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT

 22
Nếu bạn có thể thực hành ngay cả khi phóng tâm, 
bạn đã tu hành nhuần nhuyễn.

Chúng ta có đủ loại hoàn cảnhchúng ta phải ứng phó trong đời sống bình thường, thậm chí những tình trạngchúng ta không tỏ biết, nhưng chúng ta không quan tâm riêng tới cuộc sống chúng ta ; chúng ta quan tâm nhiều hơn tới sự loạn thần và những trò chơi của chúng ta. Nếu chúng ta đang trong một mức độ rất cao của sự bối rối khó chịu, chừng nào nó còn đó thì tỉnh giác không có. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm tức thời một cảm thức tỉnh giác. Theo truyền thống, mọi hỗn loạn xảy tới đều được xem như một tiếng hét kêu cầu sự thiêng liêng hay giúp đỡ, ban phước hay cầu nguyện. Trong cuộc sống bình thường hàng ngày của chúng ta, cũng trong những truyền thống hữu thần, mỗi khi cái gì thình lình ập tới, chúng ta nói, “Ngài ơi, xin nhìn vào đây”, hay chúng ta phát lên những danh hiệu thiêng liêng. Theo truyền thống, điều đó được xem là một sự nhắc nhớ lại tánh giác. Nhưng ngày nay chúng ta không còn dùng cách đó nữa, chúng ta chỉ dùng những lời chửi rủa trong một cách thức thoái hóa nhất.

Ý tưởng của châm ngôn này là sự nhận thức rằng bất cứ tình huống nào có bản chất bình thường hay bản chất phi thường xảy tới – ấm nước của chúng ta sôi tràn, hay miếng thịt của chúng ta cháy thành than, hay thình lình chúng ta trượt chân và mất tự chủ – thì trí nhớ về sự tỉnh giác liền có mặt. Bình giảng của Jamgošn Kongtrušl nói về một con ngựa được huấn luyện tốt, mạnh mẽ mất thăng bằngthình lình lấy lại được thăng bằng nhờ mất nó. Và những kinh điển nói về những hành động của bồ tát như những lực sĩ khéo luyện tập bị trợt trên một bề mặt trơn và trong quá trình bị trợt lấy lại sự thăng bằng của mình bằng cách dùng chính sức mạnh của quá trình trượt té. Tôi cho điều ấy cũng tương tự như đi trượt tuyết, khi bạn dùng sức mạnh của sự trượt xuống và để cho bạn trượt đi trên tuyết – thình lình bạn có được chú ý và phát triển sự thăng bằng từ đó.

Thế nên bất cứ khi nào có một chợt thấy hay một giật mình thình lình thấy mất sự nắm chặt của mình – việc có vẻ sợ hãi mất sự nắm chặt thực tại của mình, bấy giờ tỉnh giác có mặt một cách thích đáng. Để làm thế cần có một sự từ bỏ. Nó không phải là công việc theo chủ nghĩa sô vanh của bạn, bạn là một người mạnh mẽ và quyền lực dị thường và cũng có một cảm thức tỉnh giác xảy ra luôn luôn. Nhưng khi cái gì đụng vào bạn, đó là kết quả của sự không có chánh niệm, thì bấy giờ sự thiếu chánh niệm ấy thình lình tạo ra một nhắc cho nhớ một cách tự động. Thế nên bạn thực sự trở lại lối đi của mình, có thể nói như vậy, có thể thu xếp cho cuộc đời của bạn.

Chúng ta bắt đầu nhận thức rằng chúng ta có thể thực sự thực hành bất chấp những tư tưởng lang thang của chúng ta. Tôi xin lỗi khi là một tay sô vanh, nhưng hãy để tôi đưa ra một ví dụ về điều này. Điều thường xảy ra là tôi thường bị thương tổn, chán nản và bị vị thầy giáo thọ tốt lòng của tôi và những vị quản lý tôi ở tu viện Surmang đẩy vào những cơn khủng hoảng. Khi tôi hối hận, nhiều buồn rầu và nhiều vô hy vọng – nhưng là vô hy vọng một cách thận trọng, vô hy vọng một cách chủ tâm – tôi thường nghĩ đến bổn sư Jamgošn Kongtrušl của tôi và khóc. Sau khi ngài đi khỏi tu viện Surmang, tôi vẫn nghĩ đến ngài và ngài thực sự đã làm điều gì đó cho tôi, làm tôi phấn khởi. Tôi thường thử sự tiếp cận sùng mộ của kim cương thừa : Tôi nói với những thị giả của tôi, “Hãy ra ngoài ! Tôi không cần trà nước gì vào lúc này ; tôi đang đọc.” Rồi tôi nằm dài và kêu khóc trong nửa tiếng đồng hồ, đôi khi bốn mươi lăm phút. Rồi có ai đó nhảy vào. Các thị giả của tôi rất lo lắng, nghĩ rằng tôi bị bệnh hay bị gì đó. Và tôi nói, “Đem ra đi. Hãy ra ngoài. Tôi không cần trà nữa.”

Nhưng đôi khi tôi thấy điều ấy không nhiều hiệu quả, rằng quá sớm để đi vào sự sùng mộ kim cương thừa, bởi vì chúng ta không có đủ sự tu hành căn bản. Thế nên tôi phát triển một chiến thuật mới phù hợp hoàn toàn với châm ngôn này. Bất cứ khi nào có vấn đề hay xáo trộn gì, tôi sẽ nói cho Jamgošn Kongtrušl về chuyện đó khi đến thăm ngài, và khi tôi trở về, tôi bắt đầu dùng một phương pháp mới. Bất cứ khi nào có xáo trộn hay vấn đề gì, hay thậm chí có sự tốt đẹp hay hưng phấn – bất cứ cái gì xảy ra – tôi sẽ chỉ trở lại đời sống của mình và trí nhớ của tôi về ngài, cũng như trí nhớ của tôi về con đường và sự thực hành. Tôi bắt đầu có thể cảm thấy một cảm thức tỉnh giác, tỉnh giác nhanh chóng, tỉnh giác rất trực tiếp. Cái tỉnh giác này không tất yếu liên hệ với trí nhớ về Jamgošn Kongtrušl ; nó là cái tỉnh giác xảy đến khi bạn vừa trôi dạt khỏi và tiến trình trôi dạt khỏi ấy đem bạn trở lại. Đó là cái được nói ở châm ngôn này. Chẳng hạn nếu bạn là một người cưỡi ngựa giỏi, tâm thức bạn có thể lang thang đây đó, nhưng bạn vẫn không rớt khỏi con ngựa của bạn. Nói cách khác, dù chúng ta có trôi dạt khỏi, nếu tiến trình trôi dạt khỏi này có thể đem bạn trở lại, đó là dấu hiệu của sự thực hành toàn hảo.

Ý tưởng là bạn đã tu hành, thế nên bạn sẽ không có vấn đề rắc rối gì trong sự liên tục. Khi những trường hợp sướng khổ đụng đến, bạn không trở thành tên nô lệ của chúng. Bạn đã học làm thế nào tư duy ngay về tonglen và về Bồ đề tâm thế nên bạn không lệ thuộc vào sung sướng và khổ đau quá độ hay chán nản chút nào. Khi bạn gặp một tình huống, tình huống ấy ảnh hưởng những cảm xúctrạng thái tâm thức của bạn. Nhưng bất cứ khi nào trạng thái tâm thức và những cảm xúc của bạn bị ảnh hưởng vì sự dằn xóc làm thức tỉnh này, thình lình bản thân tình huống trở thành sự tỉnh giácchánh niệm của bạn. Nó xảy đến với bạn, thế nên bạn ít cần đặt nỗ lực vào đó từ phía bạn. Bạn không phải cố gắng giữ gìn, thấu hiểu hay canh chừng. Điều ấy không có nghĩa là bạn cần vứt bỏ mọi sự và những sự việc luôn luôn đến với bạn. Rõ ràng có một cần thiết cho bạn là nên phát triển sự tỉnh giácchánh niệm nền tảng và cảnh giác đi chung. Nhưng sự cảnh giác này là một trạng thái nền tảng của tâm thức, nó liên hệ với thiền định ba la mật.

Điều chúng ta phải bàn luận trong điểm năm là hoàn toàn thẳng tắt và trực tiếp. Điểm chính yếu là không để cho chính bạn bị thương vì những răng nanh của sự loạn thần, những răng nanh của phiền não. Cách thức làm điều đó là thấu hiểu rằng “tất cả pháp đều đồng ý ở một điểm”, đó là thuần hóa bản ngã chính mình. Đó là cái cân độ trên đó những hành giả có thể được cân nặng nhẹ. “Trong hai người chứng, hãy lấy người chính yếu” nghĩa là bắt đầu với sự phán xét của riêng bạn về bạn đang làm như thế nào. “Hãy luôn luôn giữ gìn chỉ một tâm thức hoan hỷ” nghĩa là có một cảm thức vui tươi. Bởi vì bạn không bị mắc vào trong kỷ luật gay gắt, bạn có thể kinh nghiệm niềm vui, đặc biệt khi những tình huống xấu xa quá độ hay vui mừng quá độ xảy ra cho bạn. Và dấu hiệu tu hành nhuần nhuyễn là bạn có thể thực hành ngay cả khi phóng tâm.

Nếu bạn thực hành những điều ấy, tôi chắc chắn chúng ta sẽ không có vấn đề khó khăn nào trong việc sản xuất ra hàng ngàn vị Phật và Bồ tát trong thế kỷ này !










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 22100)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27526)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37891)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19585)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14455)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20937)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28661)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21938)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21464)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26213)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21621)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19825)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21151)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15411)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22524)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33205)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27062)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17732)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24355)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14640)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant