THÍCH DUY LỰC
DANH TỪ THIỀN HỌC CHÚ GIẢI
٭٭٭
NGỮ VỰNG PHẬT HỌC
1-
A
LẠI THỨC: 阿賴耶識 Àlaya
Là
thức
thứ tám, cũng gọi là Tạng thức, tức là tất cả
chủng tử thiện, ác, vô ký, do thức thứ sáu lãnh đạo năm
thức trước (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân) làm ra đều chứa
trong đó.
2-
A HÀM: 阿含 Àgama
Bốn
thứ
kinh Tiểu thừa bằng tiếng Pali gọi là Tứ A Hàm. Gồm
Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm.
3-
A LAN NHÃ: 阿蘭若 Àranya
Dịch
là
chỗ Tịch tịnh (xa lìa náo nhiệt), cũng là chùa nơi Tỳ
kheo cư trú.
4-
A LA HÁN: 阿羅漢 Arahan
A
La Hán là quả vị của Thanh Văn thừa. Tiểu thừa dứt trừ
kiến hoặc và tư hoặc của tam giới thì chứng được Hữu
Dư Niết Bàn gọi là A La Hán, dịch là Bất Lai, nghĩa là chẳng
đến thọ sanh nơi tam giới nữa.
5-
A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ: 阿耨多羅三藐三菩提
A
Nậu Đa La dịch là vô thượng, Tam Miệu dịch là chánh đẳng,
Tam Bồ Đề dịch là chánh giác. Giác ngộ cuối cùng dịch
là Vô thượng chánh đẳng Chánh giác.
6-
A TĂNG KỲ KIẾP: 阿僧祇劫 Asamkhya
Là
số
thời gian lâu vô lượng.
7-
A XÀ LÊ: 阿闍梨 Àcàrya
Dịch
là
thân giáo sư. Có bổn phận dạy đệ tử các thứ giới
luật Tỳ kheo, từ xuất gia thọ giới, học kinh, cho đến
y chỉ dạy pháp mông tu hành.
8-
A XÀ THẾ: 阿闍世 Ajata satrou
Là
tên
của quốc vương nước Ma Kiệt Đà (thuộc Ấn Độ).
Khi Phật trụ thế, làm Thái tử nghe lời bạn ác Đề Bà
Đạt Đa nhốt phụ vương và hại Phật. Sau này ăn năn đến
Phật sám hối và quy y làm hộ pháp cho Phật giáo rất đắc
lực.
9-
A TỲ: 阿鼻
Là
địa
ngục vô gián, tức không có thời gian gián đoạn. Thế
giới này hoại thì sang thế giới khác để chịu khổ.
10-
A MA LA THỨC: 阿摩羅識 Amala
Tiếng
Hán
dịch là Vô cấu, tức là cái thức thanh tịnh vô cấu,
cũng gọi là thức thứ chín.
11-
ẤN CHỨNG: 印證
Cũng
gọi
là truyền Tâm ấn. Ấn là con dấu, chứng là chứng nhận.
Tâm của trò đã ngộ rồi nhờ tâm thầy ấn chứng trò ấy
đã ngộ.
12-
BA LOẠI THIỀN: 三種禪
Những
pháp
thiền nhằm đáp ứng ba loại căn cơ: 1. Như tu Ngũ đình
tâm quán, Tứ niệm xứ quán.v.v… Gọi là Tiểu thừa thiền.
2. Như tu Chỉ quán, Pháp giới quán, Duy Thức quán… Gọi là
Đại thừa thiền. 3. Tham công án thoại đầu mà phát khởi
nghi tình từ nghi đến ngộ chẳng có năng quán sở quán. Gọi
là Tổ Sư Thiền.
13-
BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO: 三十七道品
Ba
mươi
bảy phẩm trợ giúp cho người tu đạo Tiểu thừa. Tức
là TỨ NIỆM XỨ (quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ,
quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã), TỨ CHÁNH CẦN (ác
đã sanh nên dứt, ác chưa sanh không cho sanh, thiện chưa sanh
nên sanh, thiện đã sanh khiến cho tăng trưởng), TỨ THẦN
TÚC (dục thần túc là thỏa nguyện, cần thần túc là tinh
tấn, tâm thần túc là chánh niệm, quán thần túc là bất
loạn), NGŨ CĂN (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và
huệ căn). Do năm pháp căn bản này sanh ra Thánh đạo, nên
gọi là ngũ căn, NGŨ LỰC (là lực phát xuất từ ngũ căn
trên), THẤT BỒ ĐỀ PHẦN (1. chọn pháp, 2. tinh tấn, 3. hỷ,
4. khinh an, 5. niệm, 6. tịnh, 7. xả), BÁT CHÁNH ĐẠO (1. chánh
kiến, 2. chánh tư duy, 3. chánh ngữ, 4. chánh nghiệp, 5. chánh
mạng, 6. chánh tinh tấn, 7. chánh niệm, 8. chánh định).
14-
BẠCH NGHIỆP: 白業
Dù
làm
thiện mà chẳng cho là thiện, dù không làm ác cũng chẳng
cho là không làm ác, thiện ác đều chẳng suy nghĩ, tâm chẳng
phân biệt hay dở, tốt xấu… như tờ giấy trắng nên gọi
là bạch nghiệp.
15-
BÁT ĐẢO: 八倒
Tám
thứ
chấp điên đảo. Chấp có “thường, lạc, ngã, tịnh”
là thật có, ấy là bốn thứ điên đảo của phàm phu; chấp
không có “thường, lạc, ngã, tịnh” là thật không, ấy
là bốn thứ điên đảo của nhị thừa, nói chung là bát đảo.
16-
BÁT KỈNH PHÁP: 八敬法
1.
Ni
dù trăm hạ cũng phải lễ Tỳ kheo sơ hạ; 2. Không được
mắng, báng Tỳ kheo; 3. Không được cử tội Tỳ kheo; 4. NI
thọ giới Cụ túc phải thọ với hai bộ Tăng (nam, nữ); 5.
Ni phạm tội Tăng tàn phải sám trừ với hai bộ Tăng; 6. Mỗi
nửa tháng phải thỉnh cầu Tỳ kheo dạy bảo; 7. Kiết hạ
an cư chẳng được cùng chung một chỗ với Tỳ kheo, cũng
chẳng được quá xa chỗ ở của Tỳ kheo (đại khái cách
500m); 8. Giải hạ nên cầu Tỳ kheo chứng kiến ba thứ: Kiến,
Văn, Nghi, để kiểm thảo. Đây là điều kiện của Phật
cho người nữ xuất gia.
17-
BÁT NHÃ: 般若
Trí
huệ
của tự tánh (khác với trí huệ của bộ óc) sẵn đầy
đủ khắp không gian thời gian, chẳng có thiếu sót, chẳng
có chướng ngại, cái dụng tự động chẳng cần tác ý, tùy
cơ ứng hiện chẳng sai mảy may.
18-
BÁT PHONG: 八風
Là
được,
mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ,vui.
19-
BÁT XÚC: 八觸
Là
tám
thứ cảm giác của thân: động, ngứa, nặng, nhẹ, lạnh,
ấm, trơn, rít. Thực ra còn nhiều cảm giác như: mềm, cứng,
kiến bò, điện giựt, quên thân, bay bổng… đều là quá
trình lúc tĩnh tọa thường có.
20-
BẮC CÂU LƯ CHÂU: 北俱盧洲
Con
người
ở châu này, sanh ra liền tự lớn lên, thọ đủ ngàn
năm, ăn mặc tự nhiên, phước thọ bình đẳng.
21-
BẤT CỘNG PHÁP: 不共法
Pháp
chẳng
chung với Tam thừa (như ý thức chẳng thể suy lường,
ngôn ngữ chẳng thể diễn tả, là bất cộng pháp).
22-
BẤT KHẢ TƯ NGHÌ: 不可思議
Tự
tánh
vô hình vô thanh, lục căn chẳng thể tiếp xúc, ý thức
chẳng thể suy lường, mà diệu dụng vô biên, nên gọi bất
khả tư nghì.
23-
BẤT NHỊ: 不仁
Cũng
là
nghĩa vô trụ, chẳng có cái nhị của tương đối mà cũng
chẳng phải là một.
24-
BẾ QUAN BẢO NHẬM: 閉關保任
Bảo
nhậm
là dứt trừ tập khí thế gian và xuất thế gian dần
dần. Ví như nằm mơ khóc chảy nước mắt, khi tĩnh dậy vẫn
cần phải lau nước mắt mới sạch được. (Nằm mơ dụ cho
mê, tĩnh dậy dụ cho ngộ). Thiền tông nói: “Bất phá trùng
quan bất bế quan”, là sau khi ngộ rồi muốn bảo nhậm bổn
lai diện mục của tự tánh nên mới cần phải bế quan.
25-
BIÊN KIẾN: 邊見
Chấp
vào
một bên của tương đối, như chấp có, chấp không, chấp
thường, chấp đoạn… đều gọi là biên kiến.
26-
BÌNH THƯỜNG TÂM: 平常心
Bản
thể
của tự tánh bình thường cùng khắp không gian thời
gian, nơi phàm chẳng bớt, nơi Thánh chẳng thêm. Tâm này bình
đẳng như thường, chẳng sanh chẳng diệt, chúng sanh y theo
tâm này ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, nên gọi bình
thường tâm là đạo vậy.
27-
BỐ TÁT: 布薩 Uposatha
Là
dịch
âm từ tiếng Phạn, nghĩa là một hình thức hội họp.
Theo giới luật nhà Phật, mỗi tháng có hai kỳ Bố tát để
cử hành việc tụng giới (xưa kia, việc truyền giới cũng
trong ngày Bố tát). Trước khi tụng giới phải qua việc tự
kiểm thảo, vị Chủ tịch lâm thời hỏi Tăng chúng: “Trong
nửa tháng qua, ai có phạm giới phải đứng ra tự bạch và
sám hối với chúng?” Hỏi như vậy ba lần, nếu cả chúng
im lặng thì tuyên bố: “Tất cả giữ giới trong sạch”,
rồi mới bắt đầu tụng giới.
28-
BỒ ĐỀ: 菩提 Bodhi
Bản
thể
tự tâm đầy khắp thời gian không gian, tất cả đều
thuộc về chính mình, ngoài tâm chẳng có pháp để đắc,
nên giác ngộ cái tâm vô sở đắc, tức là Bồ Đề.
29-
BỒ TÁT: 菩薩 Bodhisattva
Âm
tiếng
Phạn là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch là Giác hữu tình,
có bổn phận khiến cho hữu tình chúng sanh đạt đến giác
ngộ.
30-
CẢNH GIỚI: 境界
Hiện
tượng
sở thấy và cảm giác trong quá trình tu hành khi chưa
ngộ, khi tiểu ngộ, khi đại ngộ.
31-
CHÁNH BIẾN TRI: 正遍知
Cái
biết
cùng khắp không gian thời gian chẳng có năng sở đối
đãi, tức là cái biết bản thể Phật tánh, khắp thời gian
thì chẳng sanh diệt, gọi là Niết Bàn; khắp không gian thì
chẳng khứ lai, gọi là Như Lai.
32-
CHÁNH PHÁP NHÃN TẠNG:
Tạng
dụ
cho kho tàng, kho này tự tánh sẵn có. Khi hiện cái dụng
của chánh pháp nhãn, thì theo căn cơ mà tùy duyên hóa độ
mọi chúng sanh, gọi là chánh pháp nhãn tạng.
33-
CHÂN ĐẾ: 真諦
Chân
đế
của tự tánh siêu việt không gian thời gian và số lượng,
chẳng thể diễn tả gọi là Chân đế.
34-
CHÂN NHƯ: 真如
Chân
thật
đúng như bản thể Tự tánh.
35-
CHỦNG TRÍ: 種智
Chủng
tử
trí huệ sẵn có trong Tự tánh, nếu được hiện hành
thì diệu dụng vô biên, cũng gọi là Nhất thiết chủng trí.
36-
CHUYỂN NGỮ: 轉語
Là
lời
nói chẳng có sở trụ, chỉ có người kiến tánh mới
nói được. Cũng như nói CÓ, ý chẳng phải cho là CÓ, nói
KHÔNG, ý chẳng phải cho là KHÔNG, cho đến nói ĐÚNG, ý chẳng
phải cho là ĐÚNG, nói SAI, ý chẳng phải cho là SAI…
37-
CHỨNG NGỘ: 證悟
Không
cần
qua bộ óc suy tư, chỉ giữ nghi tình mà bổng nhiên phát
hiện Tự tánh cùng khắp không gian thời gian, gốc nghi chợt
dứt, đạt đến tự do tự tại, cũng gọi là kiến tánh.
38-
CON MUỖI TRÊN TRÂU SẮT: 蚊子上鐵牛
Là
dụ
cho chẳng có chỗ để mở miệng.
39-
CỔ KÍNH: 古鏡
Là
gương
xưa, dụ cho chơn như Phật tánh. Sự chiếu soi khắp
không gian thời gian nhưng không có ý niệm chiếu soi.
40-
CÔNG ÁN: 公案
Một
vụ
án (chuyện tích) chẳng thể dùng bộ óc để lý giải,
làm cho thiền giả cảm thấy thắc mắc mà phát khởi nghi
tình, gọi là công án.
41-
CÔNG ĐỨC: 功德
Theo
ý
Lục Tổ giải: Công đức sẵn đầy đủ trong pháp thân,
dùng công phu để phát hiện tự tánh, thì công đức trọn
vẹn hiện ra. Bố thí, cúng dường là tu phước, chỉ có thể
gọi là phước đức, chẳng phải công đức.
42-
CÔNG PHU: 功夫
Theo
một
đường lối để tu tập một pháp môn, khi dụng công
tu tập gọi là công phu. Như tham thiền có nghi tình tức là
có công phu.
43-
CÔNG PHU THÀNH PHIẾN: 工夫成片
Tham
thiền
dụng công đề câu thoại đầu phát khởi nghi tình,
ngày đêm 24 giờ chẳng có giây phút gián đoạn tức là công
phu thành phiến, cũng gọi là đi đến thoại đầu.
44-
CỘNG PHÁP: 共法
Pháp
chung
với Nhị thừa (như có sanh tử để diệt, có Niết Bàn
để chứng) và pháp chung với Đại thừa (như thấy sanh tử,
Niết Bàn đều như hoa đốm trên không).
45-
CÚNG DƯỜNG: 供養
Bố
thí
mà chân thành cung kính, gọi là cúng dường.
46-
CỨ KHOẢN KẾT ÁN: 據款結案
Là
căn
cứ theo căn cơ trình độ của người học (nghi ngộ,
sâu cạn, chân giả…) mà dùng các phương tiện linh động
để tùy cơ quét sạch dấu tích có sở trụ của người học.
47-
DÂY CỘT LỖ MŨI:
Thiền
giả
lọt vào cái bẫy của Tổ sư (như đánh đập, chửi
mắng…) phát nghi mãnh liệt mà tự chẳng biết, cũng như
con trâu bị cột dây lỗ mũi, đi tới đi lui đều do tay của
Tổ sư lôi kéo.
48-
DIỆU GIÁC: 妙覺
Chứng
quả
Phật cùng tột, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
49-
DU GIÀ (YOGA): 瑜伽
Dịch
nghĩa
là tương ưng, tức là tương ưng với cơ, cảnh, tướng,
lý, nhân, quả… Mật tông cũng gọi là Du Già tông, Duy Thức
tông ở Ấn Độ cũng gọi là Du Già tông.
50-
DUYÊN GIÁC: 緣覺
Do
quán
Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ đạo Trung thừa, gọi
là Duyên giác.
51-
ĐẠI ĐỨC: 大德
Tiếng
xưng
hô người tu hành có đức hạnh cao siêu.
52-
ĐẠI THỪA: 大乘
Dụ
cho
xe lớn chở được nhiều người. Kinh Đại thừa liễu
nghĩa phá trừ tất cả chấp trước, cuối cùng chứng được
Tam Không (Nhân không, Pháp không, Không không) thẳng đến Đẳng
giác, Diệu giác, cũng gọi là Bồ tát thừa.
53-
ĐẠI Ý PHẬT PHÁP: 佛法大意
Tác
dụng
của Phật pháp là muốn phát minh thể dụng của tự
tánh, đại ý chẳng ngoài hai chữ “lập” và “phá”. Nhân
thừa, Thiên thừa thì chỉ lập mà chẳng phá; Đại thừa,
Tiểu thừa thì có lập có phá; Tối thượng thừa thì chỉ
phá mà chẳng lập. Lập là kiến lập tất cả giả danh, phá
là phá trừ tri kiến chấp thật.
54-
ĐÁY THÙNG SƠN ĐEN: 黑漆桶底
Dụ
cho
hầm sâu vô minh. “Nói thùng sơn lủng đáy” là dụ cho
phá được vô minh, tức là khai ngộ.
55-
ĐẲNG GIÁC: 等覺
Giác
ngộ
cái bản thể, về lý thì bằng Phật, còn về sự thì
chưa bằng Phật.
56-
ĐỀ HỒ: 醍醐
Đề
hồ
thượng vị là thức ăn người đời rất quý, dụ cho
diệu pháp cao tột không gì hơn. Nhưng nếu gặp những kẻ
tà kiến điên đảo chẳng rõ cái thượng vị đó, mà đem
dùng bậy thì lại trở thành thuốc độc hại người.
57-
ĐỊA NGỤC: 地獄
Là
chỗ
ở của người phạm tội, chỉ thọ khổ chẳng thọ
vui, tội càng lớn thì mạng sống càng lâu.
58-
ĐIÊN ĐẢO TƯỞNG: 顛倒想
Phàm
phu
ở nơi Thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng, gọi
là điên đảo tưởng. Bậc Thánh chỉ có Thế lưu bố tưởng
chẳng có trước tưởng, nên không gọi là điên đảo tưởng.
Có điên đảo tưởng là có phiền não, không có điên đảo
thì không có phiền não.
59-
ĐÔNG SƠN PHÁP MÔN: 東山法門
Vì
Ngũ
Tổ hoằng pháp thiền tại núi Đông Sơn, nên các tòng
lâm dùng hai chữ Đông Sơn để ám chỉ pháp môn của Ngũ
Tổ dạy, nên gọi là pháp môn Đông Sơn.
60-
ĐỐN GIÁO: 頓教
Là
pháp
của Thiền tông do phát khởi nghi tình mà đạt đến
đốn ngộ, cũng gọi là pháp thiền trực tiếp, nay gọi là
Tổ Sư Thiền.
61-
ĐỒNG NƠI SANH CHẲNG ĐỒNG NƠI TỬ: 同條生不同條死
Phật
tánh
đồng mà chỗ ngộ chẳng đồng, như tiểu tử tiểu
hoạt và đại tử đại hoạt chẳng đồng. Nhưng có khi chư
Tổ nói như thế là làm phương tiện để khiến thiền già
phát khởi nghi tình mà thôi.
62-
ĐƯƠNG CƠ: 當機
Thích
ứng
với căn cơ trình độ của chúng sanh gọi là đương
cơ. Cũng gọi là khế cơ.
63-
ĐƯƠNG THỂ TỨC KHÔNG: 當體即空
Lục
căn
tiếp xúc lục trần sanh ra lục thức, ngay đó biết được
vốn là vô thủy vô sanh, vốn tự không tịch, chẳng phải
cảnh trần diệt rồi mới không, ngay khi ấy sự vật đó
vốn là không, gọi là đương thể tức không.
64-
GIA PHONG: 家風
Cái
tác
phong khác biệt của các tông phái dùng để độ người.
65-
GIẢI NGỘ: 解悟
Qua
bộ
óc nghiên cứu tư duy, hoát nhiên thông suốt nghĩa lý gọi
là giải ngộ.
66-
GIẢI THOÁT: 解脫
Phàm
tất
cả cảm thọ ảnh hưởng sự khổ vui của thân tâm đều
được giải tỏa, mà đạt đến chỗ sanh tử tự do, chẳng
bị thời gian không hạn chế, mới là chân giải thoát.
67-
GIẾT PHẬT: 殺佛
Ngài
Lâm
Tế nói: “Gặp Phật giết Phật”, là muốn phá trừ
cái kiến giải chấp Phật của đương cơ, nghĩa là chẳng
trụ nơi Phật.
68-
GIỚI ĐỊNH HUỆ: 戒定慧
Giới
là
hành vi trong cuộc sống hàng ngày nên tuân theo: về chỉ
trì thì việc ác chớ nên làm, về tác trì thì việc thiện
nên phụng hành. Định là tâm địa chẳng loạn thì mới thấy
khinh an. Huệ là tâm địa chẳng si thì phát ra ứng dụng.
Nói chung là Tam vô lậu học.
69-
HẢI ẤN TAM MUỘI: 海印三昧
Hải
ấn
là hải thượng ấn văn (Nghĩa là do ánh nắng mặt trời
chiếu trên thành phố phản xạ hiện lên mặt biển, người
hàng hải thường gặp thấy thành phố trên mặt biển, nhưng
đến gần thì không thấy nữa), để dụ cho sức dụng biến
hóa vô biên của tự tánh. Cái chánh định được hiển bày
sức dụng này, gọi là Hải Ấn Tam Muội.
70-
HÀN LU TRỤC KHỐI, SƯ TỬ GIẢO NHÂN: 韓驢逐塊 , 獅子咬人
(Hàn
Lu
là con chó mực rất thông minh của nước Hàn vào thời
Xuân Thu Trung Quốc). Có người quăng ra cục xương, con chó
đuổi theo cục xương mà cắn, sư tử thì phát hiện người
quăng cục xương mà cắn ngay người đó. Người đó dụ cho
tự tánh, cục xương dụ cho lời nói của chư Phật chư Tổ.
Nếu hướng vào lời nói lãnh hội là con chó, hướng vào
vào tự tánh lãnh hội mới là con sư tử.
71-
HÀNH CƯỚC: 行腳
Ngày
xưa
người tu hành đi bộ đến các nơi tham vấn, gọi là
hành cước.
72-
HẠNH ĐẦU ĐÀ: 頭陀行 Dhùta
Dịch
là
khổ hạnh. Người tu hành tự nguyện sống theo cuộc sống
gian nan khổ nhọc để mài dũa thân tâm, muốn nhờ hạnh này
để giải thoát tất cả khổ, nói là dùng khổ để trừ
khổ, gọi là khổ hạnh.
73-
HIỆN LƯỢNG: 現量
Người
tu
chánh pháp được chứng ngộ, hiển hiện bản thể đầy
khắp không gian thời gian, cái thực tướng này gọi là Hiện
lượng, cái dụng gọi là Hiện lượng trí.
74-
HÓA NGHI TỨ GIÁO: 化儀四教
Bốn
giáo
pháp mà Phật dùng để giáo hóa chúng sanh tùy theo cơ
nghi. 1. Đốn giáo: Vì kẻ thượng căn thuyết pháp đốn tu
đốn chứng, gọi là Đốn giáo. 2. Tiệm giáo: Vì kẻ trung,
hạ căn thuyết pháp từ cạn vào sâu từng lớp tiến lên,
gọi là Tiệm giáo. 3. Bí mật giáo: dùng trí huệ bất khả
tư nghì (Bát nhã) khiến cho người nghe mỗi mỗi tự lãnh
hội mà chẳng biết với nhau, gọi là Mật giáo. 4. Bất định
giáo: Dùng sức Bát nhã khiến người nghe được hiểu khác
nhau, chứng quả chẳng đồng, hoặc nghe tiểu pháp mà đắc
đại quả, hoặc nghe đại pháp mà đắc tiểu quả, gọi là
Bất định giáo. Tứ giáo này là những nghi thức của Phật
dùng để giáo hóa chúng sanh, nên gọi là hóa nghi.
75-
HÓA PHÁP TỨ GIÁO: 化法四教
Bốn
loại
giáo pháp mà đức Phật thường thuyết giảng: 1. Tam
tạng giáo: Bao gồm tam tạng: Kinh, Luật, Luận. 2. Thông giáo:
Là pháp cộng thông của Tam thừa. 3. Biệt giáo: Là pháp riêng
biệt chỉ đối với một thừa. 4. Viên giáo: Đối với người
tối thượng căn thuyết pháp viên dung. Tứ giáo này là pháp
môn của Phật để giáo hóa chúng sanh, nên gọi là hóa pháp.
76-
HÓA THÀNH: 化城
Thanh
văn,
Duyên giác ưa pháp Tiểu thừa, chẳng tin Đại thừa nên
Phật phương tiện thuyết Niết bàn Tiểu thừa (Hóa thành)
để an ủi được tạm yên, rồi mới bảo bỏ Hóa thành xu
hướng Đại thừa để đạt đến Bảo sở (quả Phật).
77-
HÒA THƯỢNG: 和尚
Dịch
là
Thân Giáo Sư, nghĩa là Bổn sư xuống tóc cho người xuất
gia trong Phật giáo, gọi là Hòa thượng.
78-
HỘT CẢI NẠP TU DI, TU DI NẠP HỘT CẢI: 芥子納須彌 , 須彌納芥子
Hột
cải
rất nhỏ, Tu di rất lớn. Nơi thế giới tương đối,
tu di nạp hột cải thì được, hột cải nạp tu di thì không
được. Nhưng nếu vào thế giới tuyệt đối thì lớn nhỏ
có thể dung nạp lẫn nhau. Đây chứng tỏ sau khi ngộ rồi
thì chẳng phân biệt tương đối nữa.
79-
HỮU LẬU: 有漏
Có
tập
khí phiền não là hữu lậu.
80-
HỮU TÌNH: 有情
Sinh
vật
có hai thứ: động vật thuộc hữu tình, thực vật thuộc
vô tình. Phật nói độ chúng sanh với cấm sát sanh đều là
đối với chúng sanh hữu tình mà nói.
81-
HỶ XẢ: 喜捨
Hỷ
là
tự mình hoan hỷ làm việc thiện, thấy người khác làm
việc thiện cũng phát tâm tùy hỷ. Xả là xả bỏ, tất cả
sự chướng ngại giải thoát của thân tâm đều xả bỏ hết.
82-
KHẾ CƠ: 契機
Sự
dạy
bảo khai thị của Tông sư khế hợp căn cơ, trình độ
của người học gọi là căn cơ.
83-
KHÔNG CHẤP: 空執
Phá
được
ngã chấp, pháp chấp rồi, thấy vũ trụ vạn vật
đều không, bèn chấp cái không này cho là tất cả đều không
có, gọi là không chấp.
84-
KIỀN ĐỘ: 犍度
Dịch
là
tụ, uẩn, kết… một kiền độ tức là một bài, một
chương, một phẩm, hoặc một đoạn.
85-
KIẾN HOẶC: 見惑
Chấp
thật
cái kiến giải sai lầm là kiến hoặc.
86-
KIẾN TÁNH: 見性
Tham
thiền
đến chỗ cùng tột, “Ồ” lên một tiếng, trong sát
na tự tánh bỗng hiện, liễu chứng các pháp vô sanh, chẳng
phải có năng kiến sở kiến.
87-
KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI: 見聞覺知
Tức
là
trong lục căn: mắt chủ sự kiến, tai chủ sự văn, mũi,
lưỡi và thân chủ sự giác, ý chủ sự tri (biết). Nói chung
là kiến, văn, giác, tri.
88-
KIẾP: 劫 Kalpa
Là
thời
gian rất dài.
89-
KIẾP HỎA THIÊU ĐÁY BIỂN, GIÓ THỔI NÚI ĐỤNG NHAU:
劫
火燒海底,風鼓山相擊
Là
hình
dung bản thể của đại Niết bàn như như bất động,
kiếp hỏa chẳng thể thiêu hủy, gió bão chẳng thể lay động.
90-
KIẾT ĐÔNG: 結冬
Thiền
tông
ngoài kiết hạ (mùa hạ) còn có kiết đông (mùa đông),
để cho hành giả tham thiền tập trung đả thiền thất suốt
mùa đông.
91-
KIẾT HẠ: 結夏
Theo
giới
luật, Tỳ kheo mỗi năm phải nhập hạ ba tháng, từ
15 tháng 4 đến 15 tháng 7, cấm túc không được đi ra ngoài,
gọi là kiết hạ. Khi mãn hạ phải cử hành một cuộc tự
kiểm thảo liên tiếp ba ngày. Mỗi vị Tỳ kheo phải đứng
ra hỏi đại chúng về kiến, văn, nghi. Về kiến nghĩa là
“Có thấy tôi phạm giới?” Về văn nghĩa là “có nghe tôi
phạm giới?” Về nghi nghĩa là “Không thấy, không nghe, nhưng
có lý do nghi tôi phạm giới?”. Ấy gọi là mãn hạ tự tứ.
92-
LÌA TỨ CÚ, TUYỆT BÁCH PHI: 離四句 絕百非
Tứ
cú
là: có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không.
Tất cả tứ tướng đều chẳng ngoài tứ cú này, nếu trụ
thì chướng ngại sự dụng của bản thể tự tánh mà sanh
ra bách phi (đủ thứ sai lầm), nếu lìa thì hiển bày đại
dụng của tự tánh mà tuyệt bách phi.
93-
LUẬT SƯ: 律師
Tu
sĩ
thông suốt giới luật của nhà Phật, gọi là Luật sư
(chẳng phải là luật sư ngoài đời).
94-
LỤC CĂN, LỤC TRẦN, LỤC THỨC: 六根六塵六識
Lục
căn
(nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần
(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), mà sanh khởi sự phân
biệt của lục thức, như xấu đẹp của sắc, tiếng lớn
nhỏ của âm thanh, thơm thúi của mũi, ngọt đắng của vị,
lạnh nóng của xúc, sanh diệt của pháp…
95-
LỤC DIỆU PHÁP MÔN: 六妙門
1.
Sổ
tức môn: tức là khéo điều hòa thân tâm, số đếm (đếm
hơi thở) từ một đến mười để nhiếp loạn tâm; 2. Tùy
môn: tức là không miễn cưỡng cứ tùy theo hơi thở dài ngắn.
Hít vào biết hít vào, thở ra biết ra, dài ngắn, lạnh ấm
thảy đều biết cả; 3. Chỉ môn: tức là ngưng tâm tịnh
lự (lắng niệm). Tâm an nhàn, sáng sủa, trong sạch, không
chút lay động; 4. Quán môn: cần phải quán tâm rõ ràng, biết
ngũ ấm là hư vọng, phá tất cả tri kiến điên đảo và
chấp ngã… 5. Hoàn môn: tức xoay tâm phản chiếu cái tâm
năng quán, biết tâm năng quán là hư vọng chẳng thật; 6.
Tịnh môn: Tâm chẳng chỗ dựa, chẳng trụ chẳng khởi, chẳng
chấp trước, trống rỗng trong sạch. Y theo sáu môn này tu
tập sẽ đạt đến diệu cảnh Niết bàn Tiểu thừa, nên
gọi là Lục diệu môn.
96-
LỤC HÒA KÍNH: 六和敬
1.
Thân
hòa đồng trụ (ở); 2. Khẩu hòa vô tranh; 3. Ý hòa đồng
duyệt (vui); 4. Giới hòa đồng tu; 5. Kiến hòa đồng giải
(kiến giải); 6. Lợi hòa đồng quân (chia đều nhau), gọi
chung là Lục hòa, là quy ước căn bản của Tăng chúng cùng
sống chung trong Tăng đoàn.
97-
LỤC MÔN: 六門
Tức
là
cửa của lục căn, Lục Tổ nói: “Lục thức ra lục môn,
nơi lục trần vô nhiễm vô tạp, gọi là vô niệm”.
98-
LỤC NHÂN: 六因
Nhân
đương
có, nhân tương tục, nhân hình tướng, nhân tạo tác,
nhân hiển thị, nhân truyền nhau.
99-
LỤC PHÁP GIỚI: 六法戒
Là
sáu
giới nên học cho mạnh thêm của Sa di ni để tiến lên
Thức xoa. Sáu pháp là không dâm dục, không trộm cắp, không
sát hại, không vọng ngữ, không ăn phi thời và học pháp
bát kỉnh.
100-
MẠT HẬU CÚ: 末後句
Tức
là
lời nói của chư Tổ, cũng như nói: “Một câu cuối cùng
(mạt hậu) mới đến lao quan (ngộ triệt để)”, để kẻ
đã ngộ nghe rồi tự biết, kẻ chưa ngộ nghe rồi không hiểu
thì từ đó khởi lên nghi tình để đi đến chỗ ngộ.
101-
MẶC CHIẾU THIỀN: 默照禪
Dùng
cái
tâm năng quán im lặng (mặc) nhìn hẳn một điểm (sở
quán) gọi là Mặc chiếu, nghĩa là im lặng chiếu soi một
chỗ. Cũng như im lặng khán chữ “vô” là lọt vào mặc
chiếu tà thiền, vì trụ nơi im lặng chẳng thể đạt đến
nơi kiến tánh, nên cũng thuộc vào thiền bệnh.
102-
MÊ TÌNH: 迷情
Vì
chấp
thật mà mê hoặc chánh lý, gọi là mê tình.
103-
MỘT CHUYỂN NGỮ: 一轉語
Chuyển
là
nghĩa vô trụ, Thiền tông khám xét người học, nếu đáp
được một chuyển ngữ thì được ấn chứng là ngộ.
104-
NA GIÀ ĐỊNH: 那伽定
Dịch
là
đại định, bất cứ lúc nào nơi nào, đi đứng, ngồi
nằm, động tịnh, bận rộn, rảnh rang, đều ở trong định,
chẳng có xuất nhập gọi là Na già định.
105-
NĂM THỨ TÀ MẠNG: 五種邪命
1.
Giả
hiện kỳ lạ mua chuộc tín ngưỡng, như tịch cốc, thần
thông… 2. Tự khoe công đức, tài học; 3. Coi bói, tướng
số; 4. Hùng biện hô to, nhấn mạnh oai thế; 5. Khoe được
nhiều cúng dường để lấy lòng người. Đây là năm thứ
để cầu lợi, nuôi sống nên gọi là tà mạng.
106-
NGÃ CHẤP: 我執
Chấp
cái
thân thể do tứ đại, ngũ uẩn hòa hợp này là thật
Ta, nên gọi là ngã chấp.
107-
NGÃ MẠN: 我慢
Vì
chấp
thật tự ngã nên khi tiếp xúc với người khác thì
tỏ ra thái độ kiêu căng, gọi là ngã mạn.
108-
NGHI SÁT: 疑殺
Nghi
là
nghi tình, sát là giết chết mạng căn của sanh tử (ngộ),
tức là từ nghi đến ngộ. Phương tiện của chư Tổ dùng
để dẫn dắt hậu học, gọi là nghi sát người thiên hạ.
109-
NGHI TÌNH: 疑情
Ở
trong tâm đề câu thoại đầu hoặc công án, tự hỏi mà tự
sanh khởi cái cảm giác không hiểu, muốn hiểu mà hiểu không
nổi, cũng chẳng lọt vào tư duy, Thiền tông gọi là nghi tình.
110-
NGHĨA SẮC KHÔNG: 色空義
Chúng
vi
(vi trần) tụ lại gọi là Sắc, Chúng vi chẳng tự tánh
gọi là Không, đây nói Sắc Không trong nhân địa. Còn trong
Không của chúng vi chẳng một vi, trong Không của một vi chẳng
chúng vi, đây là Sắc Không trên quả địa, cũng là cái nghĩa
Sắc Không bất nhị.
111-
NGHIỆP: 業
Tâm
khởi
niệm, thân làm theo, tất cả hành vi đã làm hoặc khởi
niệm mà chưa làm đều gọi là nghiệp.
112-
NGHIỆP BÁO: 業報
Tạo
thiện
nghiệp được phước báo, tạo ác nghiệp bị khổ
báo, gọi là nghiệp báo.
113-
NGHIỆP CHƯỚNG: 業障
Bất
cứ
thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đều là chướng ngại sự
kiến tánh giải thoát, nên gọi là nghiệp chướng.
114-
NGHIỆP NHÂN, NGHIỆP QUẢ: 業因業果
Hành
vi
do thân tâm sở khởi, sở tác, huân nhiễm nơi thức thứ
tám thành chủng tử, tức là nghiệp nhân. Gặp duyên mà hiện
hành, tức là nghiệp quả.
115-
NGŨ BẤT ỨNG THÍ: 五不應施
1.
Tài
vật phi nghĩa; 2. Rượu, thuốc hút, độc dược; 3. Lưới
bẫy, chài bắt; 4. Võ khí giết người; 5. Âm nhạc, nữ sắc.
Đây là năm điều không nên dùng để bố thí.
116-
NGŨ ĐÌNH TÂM QUÁN: 五停心觀
Đây
là
năm thứ thiền quán của thừa Thanh văn: 1. Bất tịnh quán;
2. Từ bi quán; 3. Nhân duyên quán; 4. Lục thức quán; 5. Sổ
tức quán.
117-
NGŨ SUY: 五衰
Năm
thứ
tướng suy của người cõi trời sắp chết: 1. Bông trên
đầu héo tàn; 2. Quần áo nhơ bẩn; 3. Thân thể hôi thúi;
4. Nách ra mồ hôi; 5. Không ưa tòa ngồi.
118-
NGŨ UẨN: 五蘊
Cũng
gọi
là Ngũ Ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc
là vật chất (như xương, thịt…), Thọ là cảm thọ, Tưởng
là tư tưởng, Hành là hành vi và sự biến đổi, Thức là
phân biệt nhận thức. Do năm thứ này tổ chức thành thân
tâm con người, gọi là thân Ngũ uẩn.
119-
NGOẠI ĐẠO: 外道
Tôn
giáo
ngoài bổn đạo của mình gọi là ngoại đạo. Nhưng
Trí Giả Đại Sư lại chia ra làm ba thứ: 1. Chánh cống ngoại
đạo, tu thành được trường thọ hoặc sanh cõi trời. 2.
Gắn tên của Phật giáo mà hành pháp của ngoại đạo, tu
thành cũng phải đọa địa ngục. 3. Học Phật pháp thành
ngoại đạo, tức là chẳng hiểu ý Phật, đem ý mình cho là
chánh pháp để dạy người, di hại người sơ học, Phật
dụ là con trùng sư tử, tiêu diệt Phật pháp là do bọn này.
120-
NGŨ GIA: 五家
Là
năm
phái thiền của Thiền tông: Lâm Tế, Tào Động, Pháp
Nhãn, Vân Môn, Qui Ngưỡng.
121-
NHẬM MA: 恁麼
Nghĩa
là
cái này cái kia.
122-
NHẬM VẬN: 任運
Mặc
kệ
bản tánh của mọi sự mọi vật vận động tự nhiên,
chẳng dính dáng đến sự tạo tác của tâm thức, gọi là
nhậm vận.
123-
NHÂN DUYÊN: 因緣
Nhân
là
bản nhân, duyên là trợ duyên. Như một hột lúa là bản
nhân, nhân công, nước, đất là trợ duyên, nhân duyên hòa
hợp sanh ra cây lúa.
124-
NHẤT CHÂN PHÁP GIỚI: 一真法界
Là
biệt
danh của tự tánh, cũng là quả chứng cùng tột của
tông Hoa Nghiêm.
125-
NHẤT HÀNH TAM MUỘI: 一行三昧
Trong
cuộc
sống hàng ngày, đi, đứng, ngồi, nằm, thường hành
theo trực tâm, như Lục Tổ nói: “Đối với tất cả pháp
đều chẳng có chấp trước”.
126-
NHẤT HỢP TƯỚNG: 一合相
Thế
giới
do nhiều vi trần hợp thành, gọi là nhất hợp tướng.
Thân người do nhiều tế bào hợp thành cũng gọi là nhất
hợp tướng. Tất cả vật chất đều do nhiều nguyên tử
hợp thành cũng như vậy.
127-
NHẤT SIÊU TRỰC NHẬP: 一超直入
Hành
giả
tham Tổ Sư Thiền siêu việt những cấp bậc của giáo
môn, trực tiếp ngộ nhập Phật tánh, gọi là nhất siêu trực
nhập.
128-
NHẤT THIẾT NGHĨA THÀNH: 一切義成
Tự
tánh
thể không, y không hiển dụng, có dụng thì nghĩa thành,
nên Trung Quán Luận nói: “Dĩ hữu không nghĩa cú, nhất thiết
pháp đắc thành”, nghĩa là: vì có cái nghĩa không nên tất
cả pháp mới được thành tựu.
129-
NHẤT THỰC TƯỚNG ẤN: 一實相印
Thực
tướng
là bản thể của tự tánh. Đại thừa dùng tâm ấn
này để ấn chứng hành giả đã ngộ nhập thực tướng,
gọi là Nhất thực tướng ấn.
130-
NHẤT TƯỚNG TAM MUỘI: 一相三昧
Nơi
tất
cả tướng mà chẳng trụ tướng, chẳng sanh tâm yêu
ghét, lấy bỏ; chẳng nghĩ sự lợi hại, thành hoại, vô trụ
vô y, gọi là Nhất tướng tam muội.
131-
NHỊ KIẾN: 二見
Chấp
thật
kiến giải tương đối, như: hữu vô, đoạn thường,
thủy chung, sanh diệt… đều gọi là nhị tướng.
132-
NHỊ THỪA: 二乘
Duyên
giác
thừa với Thanh văn thừa hoặc gọi là Trung thừa, Tiểu
thừa, nói chung là Nhị thừa.
133-
NHỊ TỬ: 二死
1.
Là
phần đoạn sanh tử của phàm phu: từ thân này chuyển
qua thân kia, như từ thân người chuyển qua thân thú. 2. Là
biến dịch sanh tử của bậc thánh, như: từ La hán biến Bích
chi, từ Bích chi biến Sơ địa Bồ tát, từ Sơ địa biến
Nhị địa… gọi chung là Nhị tử.
134-
NHỤC THÂN BỒ TÁT: 肉身菩薩
Phàm
phu
chứng quả Bồ tát là nhục thân Bồ tát, còn Văn Thù,
Phổ Hiền, Quan Âm… là Pháp thân Bồ tát.
135-
NHƯ: 如
Như
thật
tế của bản thể tự tánh.
136-
NHƯ LAI: 如來
Bản
thể
của tự tánh cùng khắp không gian, bất khứ bất lai,
đúng như bổn lai nên gọi là Như lai.
137-
NHƯ LAI QUYỀN GIÁO: 如來權教
Phật
vì
thích ứng mọi đương cơ mà thiết lập giáo pháp quyền
xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nên gọi là Như
lai quyền giáo.
138-
NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG: 如如不動
Bản
thể
của tự tánh cùng khắp không gian thời gian, chẳng động
chẳng tịnh, chẳng biến chẳng dời, chẳng sanh chẳng diệt,
gọi là Như như bất động.
139-
NIẾT BÀN: 涅槃 Nirvana
Bản
thể
của tự tánh đầy khắp thời gian, bất sanh bất diệt,
chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, vô thủy vô chung (Hán
văn dịch là viên tịch, chẳng phải chết).
140-
NO CHẲNG ĐÓI: 飽不饑
Cũng
gọi
là bảo tham (bảo là no đủ). Sau khi triệt ngộ, gốc
nghi dứt hẳn chẳng còn nghi hoặc nào nữa, nên nói no chẳng
đói.
141-
NỘI TRẦN: 內塵
Sắc,
thanh,
hương, vị, xúc đối với ngũ căn là ngoại trần, còn
pháp sanh diệt đối với ý căn là nội trần, cũng gọi là
pháp trần.
142-
NÚI TU DI: 須彌山 Sumeru
Dịch
là
Diệu Cao Sơn, là núi lớn nhất trong vũ trụ.
143-
OAI NGHI: 威儀
Đi,
đứng,
nằm, ngồi, mặc áo, ăn uống cho đến đi tiêu đi
tiểu, đều giữ hình dáng an nhàn trang nghiêm, gọi là oai
nghi.
144-
Ồ LÊN MỘT TIẾNG: 囫地一聲
Là
hình
dung cái cảm giác như điện chớp ngay lúc khai ngộ, bỗng
nhiên bản thể đầy khắp không gian thời gian.
145-
PHẢNG HÉT: 棒喝
Đức
Sơn
vào cửa liền phảng (đập gậy), Lâm Tế vào cửa liền
hét. So với tác dụng “Niêm hoa thị chúng” của Phật Thích
Ca
chẳng khác. Ấy đều là dùng để cắt đứt ý thức hiện
hành của đương cơ mà đạt đến mục đích “Ngay đó kiến
tánh”.
146-
PHÁP: 法
Tất
cả
sự vật hữu hình gọi là sắc pháp, vô hình gọi là
tâm pháp, có thể tánh gọi là hữu pháp, không thể tánh gọi
là vô pháp. Các pháp sắc, tâm, hữu, vô, gọi chung là Pháp
giới.
147-
PHÁP BA LA MẬT: 波羅密法
Dịch
là
phương pháp để đi đến bờ bên kia. Bờ bên kia dụ cho
quốc độ tự do tự tại. Pháp Ba La Mật có sáu thứ: bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ;
cũng gọi là Lục độ.
148-
PHÁP CHẤP: 法執
Tất
cả
sự vật trong vũ trụ do cảm giác tư duy của bộ óc nhận
thức được đều chấp là pháp thật, gọi là pháp chấp.
149-
PHÁP GIỚI: 法界
Tất
cả
sự vật trong vũ trụ hoặc ẩn hoặc hiển, hoặc có hoặc
không, hoặc đã biết hoặc chưa biết, đều gọi là pháp,
tổng danh là pháp giới.
150-
PHÁP HIỆN HÀNH CHẲNG TƯƠNG ƯNG: 不相應行法
Chẳng
phải
vô hình như Tâm vương, Tâm sở, chẳng phải có hình
như sắc pháp, với ba thứ pháp này chẳng tương ưng mà lại
biến hóa ảo tượng trong vũ trụ, nên gọi là pháp hiện
hành chẳng tương ưng, cũng như sanh, trụ, dị, diệt, mạng
căn, đắc, phi đắc… Tất cả mười bốn thứ.
151-
PHÁP HỮU VI: 有為法
Những
pháp
có hình tướng, số lượng, có thể suy lường và dùng
lời nói văn tự diễn tả được, đều gọi là pháp hữu
vi.
152-
PHÁP KHÍ: 法器
Những
nhân
tài có thể đào tạo thành người đủ đại đại cơ
đại dụng để nối tiếp huệ mạng của Phật, hoằng dương
chánh pháp gọi là Pháp khí.
153-
PHÁP MÔN TÂM ĐỊA: 心地法門
Tâm
địa
dụ cho tự tánh. Pháp môn tu hành để giác ngộ tự
tánh, gọi là pháp môn tâm địa.
154-
PHÁP SƯ: 法師
Nam
nữ
tu sĩ xuất gia đã thông đạt Phật pháp, mà hay đem tinh
nghĩa của Phật pháp, dùng ngôn ngữ văn tự, phương tiện
để giảng dạy cho người khác nghe, gọi là Pháp sư.
155-
PHÁP TÀI: 法財
Là
thần
thông trí huệ, năng lực vô lượng vô biên của tự
tánh vốn sẵn có.
156-
PHÁP THÂN: 法身
Tức
là
bản thể của tự tánh cùng khắp không gian thời gian,
nó vô hình vô thanh, mà hay hiện hình hiện thanh, như như bất
động mà cùng tột biến hóa, tất cả năng lực đều sẵn
đầy đủ.
157-
PHÁT MINH TÂM ĐỊA: 發明心地
Tức
là
minh tâm kiến tánh.
158-
PHÁP VÔ VI: 無為法
Pháp
không
có hình tướng, số lượng, chẳng thể suy lường và
dùng lời nói diễn tả được.
159-
PHẤT TRẦN: 拂子
Là
công
cụ của Thiền sư dùng để tiếp dẫn hậu học khiến
thiền giả phát khởi nghi tình cho đến khai ngộ.
160-
PHẬT ĐÀ: 佛陀 bouddha
Người
giác
ngộ cùng tột đã chứng Diệu giác như Phật Thích Ca.
161-
PHI LƯỢNG: 非量
Tất
cả
tri kiến chấp thật, sai trái với hiện lượng, tỷ lượng.
162-
PHIỀN NÃO: 煩惱
Kiến
hoặc,
tư hoặc, kiến giải và tư tưởng sai lầm nhiễu loạn
sự yên tịnh của thân tâm.
163-
PHIỀN NÃO CHƯỚNG: 煩惱障
Tất
cả
phiền não do bảy thứ tình cảm (mừng, giận, buồn, vui,
yêu, ghét, ham thích) và sáu thứ dục vọng (của lục căn)
sanh khởi đều làm chướng ngại sự giải thoát cái khổ
sanh tử.
164-
PHỔ BIẾN: 普遍
Là
chẳng
nơi nào không có, chẳng lúc nào không có.
165-
PHƯƠNG TIỆN: 方便
Tùy
theo
căn cơ trình độ của chúng sanh, tùy nghi giả thiết đủ
thứ thí dụ để giáo hóa mọi người.
166-
PHƯƠNG TRƯỢNG: 方丈
Phòng
ở
của Hòa thượng Trụ trì, ngang rộng chỉ có một trượng.
167-
QUẢI ĐƠN: 掛單
Quải
là
ở đậu, đơn là đơn vị. Tất cả Tu sĩ sống trong Tòng
lâm như một ông Tăng là một đơn vị, ở đậu một ngày
thì làm chủ (như một công dân) Tòng lâm một ngày, ở đậu
mười năm thì làm chủ mười năm.
168-
QUÁN CƠ: 觀機
Quán
xét
căn cơ trình độ của người học để theo đó mà dạy
bảo.
169-
QUÁN TƯỞNG: 觀想
Dùng
cái
tâm năng quán để quán cái cảnh sở quán, khi quán thành
thì niệm khởi, cảnh liền hiện, như quán mặt trời thì
niệm khởi thấy ban đêm như ban ngày.
170-
QUÃNG ĐƠN: 廣單
Là
giường
rộng dài của Thiền đường, mỗi giường có thể
nằm mấy chục người. Đơn vị mỗi người nằm rộng cỡ
0,8m.
171-
QUỐC ĐỘ TUYỆT ĐỐI: 絕對國土
Sáng
tỏ
của thể dụng của tự tánh tuyệt đối bất nhị. Khắp
thời gian chẳng sanh diệt gọi là Niết bàn; khắp không gian
chẳng khứ lai gọi là Như lai; chẳng thị phi phân biệt gọi
là Bát nhã; chẳng trụ chẳng đi gọi là thể dụng Bất nhị;
chẳng trụ thì phi tịnh, chẳng đi thì phi động, gọi là
Như Như Bất Động.
172-
SA MA THA: 奢摩他 samatha
Là
thiền
quán cực tịnh, quán các pháp đều không, như gương
soi các tướng.
173-
SÁT NA: 剎那 ksana
Là
thời
gian rất ngắn, 1/60 của giây.
174-
SÁT NHÂN ĐAO, HOẠT NHÂN KIẾM: 殺人刀 活人劍
Dao
giết
người, kiếm làm sống. Cơ xảo của chư Tổ tiếp dẫn
hậu học có cao thấp. Thấp là tiểu cơ tiểu dụng, nghĩa
là chỉ biết dùng sát nhân đao mà chẳng biết dùng hoạt
nhân kiếm. Cao là đủ đại cơ đại dụng, khéo dùng sát
nhân đao, cũng khéo dùng hoạt nhân kiếm. Sát nhân đao chỉ
có thể khiến người tiểu tử tiểu hoạt, còn đồng thời
biết dùng sát nhân đao và hoạt nhân kiếm thì có thể khiến
người đại tử đại hoạt.
175-
SÁU BA LA MẬT: 六波羅密
Cũng
gọi
là Lục độ, gồm Đàn na (bố thí), Thi la (trì giới),
Sằn đề (nhẫn nhục), Tỳ lê da (tinh tấn), Thiền na (thiền
định), Bát nhã (trí huệ).
176-
SÁU MƯƠI HAI KIẾN CHẤP: 六十二見
Tứ
cú
x
ngũ uẩn = 20. 20 x tam thế = 60. 60 + hữu, vô = 62. Tất cả
kiến chấp đều không ra ngoài 62 kiến này. Như chấp là có,
là không, là chẳng có chẳng không, là cũng có cũng không;
hoặc quá khứ không, hiện tại có, vị lai không; hoặc quá
khứ có, hiện tại có, tam thế đều có, hoặc tam thế đều
không… Cộng chung thành 62 kiến chấp.
177-
SÁU THỨ CHẤN ĐỘNG: 六種震動
Chia
làm
ba: 1. Sáu thời chấn động: Phật nhập thai, xuất thai,
xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn. 2.
Sáu phương chấn động: Đông nổi Tây chìm, Tây nổi Đông
chìm; Nam nổi Bắc chìm, Bắc nổi Nam chìm; Biên nổi Trung
chìm, Trung nổi biên chìm. 3. Sáu tướng chấn động: Tướng
động, tướng nổ, tướng chấn, tướng kích, tướng rống,
tướng nổ. Những chấn động kể trên đều tượng trưng
triệu chứng tốt đẹp, nhưng người có thiên nhãn mới được
thấy.
178-
SÂN: 瞋
Do
đối
cảnh hoặc ghi nhớ, kích thích sanh khởi cái tâm phẩn
nộ hoặc oán hận.
179-
SI: 痴
Chẳng
có
thật tướng của sự vật vốn không thật mà cho là thật.
180-
SỞ TRI CHƯỚNG: 所知障
Tri
kiến
do bộ óc nhận thức được đều làm chướng ngại
sự kiến tánh.
181-
SƯ TỬ HỐNG: 獅子吼
Khi
Phật
thuyết pháp, bọn ma khiếp phục, ý dụ cho sư tử rống
thì bách thú đều phục vậy.
182-
TÀ KIẾN: 邪見
Cho
rằng
tất cả đều không có nhân quả, kiến giải này gọi
là tà kiến.
183-
TẠI GIA, XUẤT GIA: 在家出家
Tại
gia
tu hành thọ ngũ giới gọi là cư sĩ, nam gọi là Ưu bà
tắc, nữ gọi là Ưu bà di. Xuất gia tu hành, nam nữ thọ giới
khác nhau, mới xuất gia cùng thọ 10 giới, nam gọi là Sa di,
nữ gọi là Sa di Ni. Sa di Ni thọ thêm lục pháp giới gọi
là Thức xoa ma na Ni. Sa di thọ 250 giới gọi là Tỳ kheo, Thức
xoa thọ 384 giới gọi là Tỳ kheo Ni. Những giới kể trên
gọi là giới Thinh văn, thuộc về Tiệm giới, phải y theo
cấp bậc tiệm tiến không được nhảy qua. Giới Bồ tát
thì thuộc về Đốn giới, chẳng phân biệt cấp bậc, nam,
nữ, tại gia, xuất gia; chỉ cần phát tâm chân chính, đều
có thể thọ cùng một lượt.
184-
TAM ĐỘC: 三毒
Tức
là
tham, sân, si.
185-
TAM GIẢI THOÁT MÔN: 三解脫門
Ghi
trong
Đại Bát Nhã, tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tên
gọi dù có ba, nhưng thể vốn là một, chư pháp thể “không”,
có tướng đều vọng, nguyện là mong cầu. Người sơ tham
phát nguyện chỉ là phương tiện tạm thời. Phật là người
vô cầu, nếu chấp tướng, chấp nguyện thì chẳng thể từ
“không” hiển dụng, mà lại chướng ngại sự giải thoát,
vì là có sở trụ vậy.
186-
DỤC GIỚI: 三界
Dục
giới
(có nam nữ dâm dục), Sắc giới (chỉ có hình sắc mà
không có nam nữ dâm dục), Vô sắc giới (không có sắc thân,
chỉ có thần thức), gọi chung là tam giới.
187-
TAM HIỀN: 三賢
Người
chứng
đắc ba quả vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi
hướng.
188-
TAM HUYỀN TAM YẾU: 三玄三要
Là
cơ
xảo của Lâm Tế để kích thích hành giả tham thiền phát
khởi nghi tình.
189-
TAM KHỔ: 三苦
Khổ
khổ,
hoại khổ, hành khổ. Khổ khổ là lúc thân tâm đang
chịu thống khổ; hoại khổ là cái khổ vì sự vật vui thú
bị mất đi; hành khổ là cái khổ chuyển biến chẳng yên
định. Dục giới có đủ ba khổ; Sắc giới chỉ có hoại
khổ, hành khổ; Vô sắc giới chỉ có hành khổ.
190-
TAM LUÂN THỂ KHÔNG: 三輪體空
Nói
về
việc bố thí: kẻ bố thí, kẻ nhận bố thí, tài vật
để bố thí, gọi chung là Tam luân. Thí mà chẳng trụ nơi
thí gọi là Tam luân thể không.
191-
TAM MA ĐỀ: 三摩提 samàtha
Là
thiền
quán tùy duyên biến hiện, quán các pháp đều giả,
như lúa mạ huyễn hóa mà dần dần tăng trưởng.
192-
TAM MẬT GIA TRÌ: 三密加特
Thân,
ngữ,
ý là tam mật. Đại Nhựt Như lai bản thể khắp thời
gian không gian là Thân mật. Tiếng nói khắp thời gian không
gian là Ngữ mật. Thức đại khắp thời gian không là Ý mật.
Bàn tay kiết ấn là Thân mật, miệng tụng chú là Ngữ mật,
tâm quán tưởng là Ý mật. Thân, ngữ, ý đồng thời thực
hành gọi là Tam mật gia trì.
193-
TAM MUỘI: 三昧 samàdi
Tự
tánh
như như bất động gọi là chánh định. Đi, đứng, nằm,
ngồi, làm việc đều trong định. Nếu tĩnh tọa mới nhập
định,
có xuất có nhập thì chẳng phải đại định.
194-
TAM NĂNG BIẾN: 三能變
1.
Trong
thức tám, khi có một chủng tử nào chín muồi, gặp
duyên biến hiện thuộc về dị thục năng biến. 2. Dù trong
chủng tử đủ sức biến hiện, còn phải chờ thức bảy,
ngày đêm suy lường chấp ngã, mới được biến hiện ra,
thuộc về suy lường năng biến. 3. Hai thức thứ bảy và thức
thứ tám, dù có tính năng biến, còn phải chờ thức thứ
sáu liễu biệt lục trần (phân biệt rõ ràng) mới được
sanh khởi hiện hành, thuộc liễu biệt năng biến; ba thức
sáu, bảy, tám hợp tác biến hiện vũ trụ vạn vật, gọi
là Tam năng biến.
195-
TAM NHÂN: 三因
Chánh
nhân
(bản nhân thành Phật), liễu nhân (liễu triệt lý thành
Phật), duyên nhân (trợ duyên thành Phật).
196-
TAM PHÁP ẤN: 三法印
Chư
hành
vô thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh, thuộc
pháp ấn chứng của Tiểu thừa.
197-
TAM QUÁN: 三觀
Không
quán,
giả quán, trung quán, do Thiên thai tông kiến lập.
198-
TAM TẠNG PHÁP SƯ: 三藏法師
Tu
sĩ
thông suốt Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, gọi là
Tam tạng Pháp sư.
199-
TAM TÁNH: 三性
Là
thiện,
ác, vô ký (phi thiện, phi ác), gọi chung là tam tánh.
Còn tam tánh của Duy Thức tông làm Biến kế chấp (chấp trước),
Y tha khởi (nhân duyên), Viên thành thật (Phật tánh).
200-
TAM THÂN: 三身
Pháp
thân
(bản thể Phật tánh), Báo thân (thân Tự thọ dụng và
Tha thọ dụng), Ứng hóa thân (vì độ chúng sanh mà biến hiện
những thân thích ứng với chúng sanh).
201-
TAM THỤ: 三受
Khổ
thụ,
lạc thụ, bất khổ bất lạc thụ (cũng gọi là xả
thụ).
202-
TAM Y: 三衣
Hạ
y
may năm điều là An đà hội, Trung y may bảy điều là Uất
đa la tăng, Thượng y may chín điều đến hai mươi lăm điều
là Tăng già lê.
203-
TÀO KHÊ: 曹溪
Tên
địa
phương. Đạo tràng củc Lục tổ Huệ Năng sáng lập
tại địa phương đó, nên xưng Lục Tổ là Tào Khê.
204-
TÂM ẤN: 心印
Thầy
dùng
cái tâm ngộ của mình ấn chứng cái tâm đệ tử đã
ngộ, nói là lấy tâm ấn tâm.
205-
TÂM CHƯA ỔN: 心未穩
Kẻ
chưa
triệt ngộ thì tâm chưa yên ổn, cũng là gốc nghi chưa
được dứt sạch.
206-
TÂM NĂNG BIẾN: 能變心
Di
thục
năng biến thuộc thức thứ tám, Tư lượng năng biến
thuộc thứ bảy, Liễu biệt năng biến thuộc thức thứ sáu.
Vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều do ba thức này hợp tác
biến hiện, nên gọi là Tâm năng biến.
207-
TÂM, TÂM SỐ: 心 心數
Tâm
là
tám thứ thức nơi Tâm vương. Tâm số cũng gọi là Tâm
sở, là hiện tượng biểu hiện do Tâm vương hoạt động,
gồm 51 Tâm sở, do tông Duy Thức kiến lập.
208-
TÂM YẾU: 心要
Vạn
pháp
duy tâm chẳng thể kể xiết chỉ nói yếu chỉ, gọi
là tâm yếu.
209-
TẬP KHÍ PHIỀN NÃO: 煩惱習氣
Đã
thành
thói quen chấp thành kiến giải và tư tưởng sai lầm
của mình, gọi là tập khí phiền não.
210-
TÁNH KHÔNG: 空性
Chẳng
chấp
thật có, chẳng chấp thật không, chẳng chấp thật
chân, chẳng chấp thật giả, được như thế thì các pháp
tự không, chẳng phải tiêu diệt thể tướng rồi mới thành
không, nên gọi là Tánh không.
211-
TÁNH TƯỚNG: 性相
Phật
thiết
lập phương tiện đem bản thể của Tâm địa mệnh
danh là “tánh”, như Phật tánh, Tự tánh, Thật tánh, Không
tánh… mà đem những tư tưởng chấp thật gọi là Tướng,
nói: “Phàm sở hữu tướng đều là hư vọng”, rồi chia
làm bốn cấp để sáng tỏ nghĩa tướng: Ngã tướng, Nhân
tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng. Nhưng sau khi kiến
tánh rồi thì chẳng phân biệt tánh với tướng, mà gọi bản
thể của Phật tánh là Thực tướng.
212-
TẾ HẠNH: 細行
Hành
động
vi tế của người tu hành trong cuộc sống hàng ngày,
đều đúng theo giới luật của nhà Phật gọi là Tế hạnh.
213-
THAM: 貪
Có
tâm
mong cầu sự thành công hay đắc vật và muốn thỏa mãn
dục vọng của mình đều gọi là tham.
214-
THAM THIỀN: 參禪
Tham
thiền
chẳng phải ngồi thiền, ngồi thiền chẳng phải tham
thiền. Tham thiền ở nơi tâm ngộ mà chẳng ở nơi ngồi.
Trước đời nhà Tống Trung Quốc (cách đây 600 năm), các Tổ
sư mỗi mỗi dùng cơ xảo khiến thiền giả tự khởi nghi
tình mà chẳng biết mình đã tham thiền, nên kẻ ngộ nhiều,
lại mau ngộ. Từ khi Truyền Đăng Lục (Lịch sử Thiền tông)
ra đời, thiền giả đã biết cơ xảo của Tổ sư nên chẳng
thể tự khởi nghi tình, Tổ sư bất đắc dĩ phải dạy tham
thoại đầu, nên sau này kẻ ngộ ít mà lại chậm ngộ.
215-
THAM THOẠI ĐẦU (Công án): 參話頭 (公案)
Chữ
tham
tức là nghi. Đề câu thoại đầu hỏi thầm trong tâm,
cảm thấy không hiểu nên sanh khởi nghi tình. Có nghi tình
mới gọi là tham thiền. Tham thoại đầu cũng gọi là khán
thoại đầu, tức là nhìn ngay chỗ một niệm chưa sanh khởi
(là vô thủy vô minh) không biết đó là cái gì, phối hợp
với câu thoại đầu để tăng thêm nghi tình.
216-
THAM VẤN: 參問
Hành
giả
đi các nơi tham học, hỏi đạo gọi là tham vấn.
217-
THANH VĂN: 聲聞
Văn
Phật
thanh giáo, nghĩa là nghe Phật thuyết Tứ Diệu Đế (Khổ,
Tập, Diệt, Đạo) mà giác ngộ đạo Tiểu thừa.
218-
THÁNH ĐẾ: 聖諦
Lý
đạo
chân chánh do bậc Thánh sở thuyết, gọi là Thánh đế.
219-
THÁNH NGÔN LƯỢNG: 聖言量
Ngôn
giáo
của Phật thuyết khiến chúng sanh trừ mê khởi tín,
theo pháp tu hành được chứng quả, cũng gọi là Thánh giáo
lượng.
220-
THẮNG NGHĨA: 勝義
Nghĩa
đúng
như thực tế, tất cả nghĩa lý khác chẳng thể so bằng,
cũng gọi là Đệ nhất nghĩa.
221-
THÂN TRUNG ẤM: 中陰身
Ấm
trước
đã hết, ấm sau chưa sanh, có thân huyễn hóa nơi khoảng
giữa gọi là thân trung ấm, vì thiện nghiệp ác nghiệp bằng
nhau chưa rõ đầu thai sanh nơi nào, trung ấm này mỗi bảy
ngày một sanh tử để đợi nghiệp duyên chuyển biến rồi
đi đầu thai, có thể kéo dài 49 ngày.
222-
THẬP BÁT BIẾN: 十八變
Thần
thông
biến hóa hiển hiện trong Thập bát giới (Lục căn,
Lục trần, Lục thức), gọi là Thập bát biến.
223-
THẬP ĐỊA: 十地
Tức
là
Bồ tát Thập địa, cũng gọi là Thập Thánh.
224-
THẬP HẠNH: 十行
Quá
trình
tu chứng của giáo môn từ ngôi Sơ hạnh đến ngôi Thập
hạnh, thuộc giai đoạn thứ nhì của Tam Hiền.
225-
THẬP HỒI HƯỚNG: 十迴向
Quá
trình
tu chứng của giáo môn từ ngôi Sơ hồi hướng đến
ngôi Thập hồi hướng, thuộc giai đoạn thứ ba của Tam Hiền.
226-
THẬP LỰC: 十力
1.
Trí
lực biết sự hợp lý, bất hợp lý. 2. Trí lực biết
nghiệp báo của tam thế. 3. Trí lực biết thiền định, giải
thoát. 4. Trí lực biết các căn hay, dở. 5. Trí lực biết
về kiến giải. 6. Trí lực biết về cảnh giới. 7. Trí lực
biết về nhân quả hành đạo. 8. Trí lực thiên nhãn thông.
9. Trí lực túc mạng thông. 10. Trí lực biết tất cả sự
vật đúng như thật tế.
227-
THẬP THÁNH: 十聖
Người
chứng
đắc quả vị từ Sơ địa đến Thập địa, tức là
Bồ tát Sơ địa đến Thập địa.
228-
THẬP TÍN: 十信
Từ
Sơ
tín đến Thập tín, sức tin đối với tự tâm đã thành
tựu viên mãn.
229-
THẬP TRỤ: 十住
Quá
trình
tu chứng của giáo môn từ Sơ trụ đến Thập trụ,
thuộc giai đoạn đầu của Tam Hiền.
230-
THẬP SỬ: 十使
Cũng
gọi
là Thập hoặc, tức là tham, sân, si, mạn, nghi (Ngũ độn
sử) và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến,
giới thủ kiến (Ngũ lợi sử), gọi chung là Thập sử. (Kiến
thủ kiến: chấp cái thành kiến cho là chân lý; Giới thủ
kiến chấp cái tà kiến cho là chánh giới).
231-
THẬT TƯỚNG: 實相
Bản
thể
Phật tánh cùng khắp thời gian không gian, pháp tự như
thế chẳng do tạo tác, chân thật bất hư, nên gọi là Thật
tướng.
232-
THÊ CHỈ: 棲止
Tức
là
cư trú.
233-
THẾ GIỚI CỰC LẠC: 極樂世界
Quốc
độ
mà người tu Tịnh độ cầu vãng sanh. Vì quốc độ chỉ
có vui chẳng có khổ, nên gọi là Cực lạc.
234-
THẾ LƯU BỐ TƯỞNG: 世流布想
Thế
là
thế gian, lưu là lưu hành, bố là phổ biến, tưởng là
tư tưởng. Nghĩa là những tư tưởng mà thế gian phổ biến
lưu hành như vậy rồi. Cũng như kêu trâu là trâu, kêu ngựa
là ngựa.
235-
THIÊN ĐƯỜNG: 天堂
Chỗ
ở
của người cõi trời chỉ thọ vui chẳng thọ khổ, phước
lớn chừng nào thì tuổi thọ cao chừng nấy.
236-
THIÊN LONG BÁT BỘ: 天龍八部
Thiên,
long,
dạ, xoa (Quỷ dũng mãnh), Càn thát bà (Hương thần), A
tu la (Phi thiên), Câu lâu na (Kim xí điểu), Khẩn na la (Phi nhơn),
Ma hầu la già (Đại mãng xà), gọi chung là Bát bộ chúng.
237-
THIÊN VIÊN: 偏圓
Thiên
là
thiên hướng một bên, viên là đầy khắp không gian thời
gian. Tương đối là thiên, tuyệt đối là viên. Thiên có giới
hạn, viên chẳng có giới hạn.
238-
THIỀN BỆNH: 禪病
Đứng
về
lập trường Tổ Sư Thiền, phàm có thể chướng ngại
sự kiến tánh đều gọi là thiền bệnh. Nói tóm lại, phàm
có sở trụ gọi là bệnh, như trụ nơi có, không, động,
tịnh, nói, nín… nói cách khác lọt vào tương đối đều
là bệnh.
239-
THIỀN NA: 禪那
Là
thiền
quán tịch diệt, quán các pháp phi không phi giả mà
vô trụ, như âm thanh ẩn trong chuông trống.
240-
THIỀN TÔNG: 禪宗
Phật
giáo
Trung Quốc chia làm năm nhánh là: Thiền, Giáo, Tịnh, Mật,
Luật. Tất cả đều có thiền riêng nhưng không xưng là Thiền
tông, chỉ có Tổ Sư Thiền mới xưng là Thiền tông, cũng
gọi là Tông Môn Thiền.
241-
THIỆN CĂN: 善根
Là
chủng
tử Phật tánh.
242-
THIỆN TRI THỨC: 善知識
Tiếng
xưng
hô người đủ chánh tri chánh kiến.
243-
THỊ GIẢ: 侍者
Trong
Phật
giáo, những bậc cao Tăng vì cần phương tiện cho sự
hoằng pháp, nên đều có một hay hai người bên cạnh hầu
hạ ngày đêm, người hầu hạ bên cạnh gọi là thị giả.
244-
THOẠI ĐẦU: 話頭
Trước
khi
chưa khởi niệm muốn nói câu thoại, tức là khi một niệm
chưa sanh khởi, gọi là thoại đầu. Nếu có khởi niệm cho
là nên, cho là không nên, cho là đúng, cho là không đúng, phàm
có hai chữ cho là đều chẳng phải thoại đầu.
245-
THOẠI ỨNG: 瑞應
Triệu
chứng
báo trước sự tốt đẹp và sau này sẽ ứng nghiệm
đúng với triệu chứng đó, gọi là thoại ứng.
246-
THỪA ĐƯƠNG: 承當
Nghĩa
là
ngay đó lãnh hội ý của chư Phật chư Tổ.
247-
THƯỜNG TRỤ: 常住
1.
Chúng
(Tăng, Ni) ở trong Tòng lâm đều là người thường trụ,
nghĩa là chủ nhân của Tòng lâm, quyền lợi và nghĩa vụ
của đại chúng đều bình đẳng. 2. Thường trụ Tam bảo
thì cho tượng Phật là Phật bảo, kinh Phật là Pháp bảo,
Tăng Ni hiện tiền là Tăng bảo. Thường trụ Tam bảo này
cũng đại diện cho Phật giáo thọ nhận sự quy y của Phật
tử.
248-
THƯỜNG, VÔ THƯỜNG: 常 , 無常
Phật
tánh
phi thường phi vô thường, chấp thường là thường kiến
ngoại đạo, chấp vô thường là đoạn kiến ngoại đạo.
249-
THƯỢNG ĐƯỜNG: 上堂
Vị
trụ
trì Tòng lâm mỗi ngày hai lần sớm chiều lên pháp đường
giải đáp sự tham vấn của Tăng chúng, gọi là thượng đường.
250-
TỊCH CHIẾU: 寂照
Tịch
là
như như bất động, chiếu là chiêu soi các nơi. Vì thể
dụng của tự tánh cùng khắp không gian và thời gian, tịch
mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch, tịch chiếu bất
nhị.
251-
TIỆM GIÁO: 漸教
Pháp
tu
của giáo môn từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập
hồi hướng, Thập địa cho đến Đẳng giác, Diệu giác, từng
bậc từng bậc tiến lên, cũng gọi là Pháp thiền gián tiếp.
252-TIÊU
TỨC: 消息
Nghĩa
là
tin tức tham thiền công phu thành khối đạt đến thoại
đầu không thấy mùi vị nào cả, ấy là tin tức sắp kiến
tánh.
253-
TIỂU THỪA: 小乘
Dụ
cho
xe nhỏ chở một mình. Pháp Tiểu thừa phá nhân ngã chấp,
nghi ngơi nơi Hóa thành chẳng đến Bảo sở (quả Phật), cũng
gọi là Thinh văn thừa.
254-
TỌA THIỀN: 坐禪
Phàm
tĩnh
tọa quán tưởng, chú tâm một chỗ khiến vọng tưởng
chẳng khởi mà đạt đến tâm trí yên định, đều gọi là
tọa thiền.
255-
TÔ TẤT ĐỊA: 蘇悉地 Susiddhi
Dịch
là
Diệu Thành Tựu, nghĩa là sự thành tựu bất khả tư nghì.
256-
TỔ SƯ: 祖師
Sư
phụ
của các tông phái, có đủ năng lực truyền pháp cho
đệ tử, thông thường Phật giáo đồ gọi vị ấy là Tổ
sư.
257-
TÔNG ĐỒ TRI GIẢI: 宗徒知解
Tông
là
Thiền tông, đồ là môn đồ. Trong kinh Pháp Bảo Đàn,
Lục Tổ quở Thần Hội rằng: “Ngươi sau này dù ra hoằng
pháp cũng chỉ là một môn đồ đủ tri giải của Thiền tông
mà thôi” (Tri giải là chướng ngại sự khai ngộ).
258-
TÔNG THỪA: 宗乘
Tức
là
Thiền tông, cũng gọi là Tổ Sư Thiền, là Pháp thiền
trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền cho sơ tổ Ma
Ha Ca Diếp.
259-
TÒNG LÂM: 叢林
Lâm
là
rừng, nhiều cây tụ lại một chỗ gọi là Tòng, xưa nay
Thiền tông dùng danh từ này để xưng hô thiền viện. Ở
trung Quốc có những Tòng lâm có thể dung nạp hai ba ngàn hành
giả tham thiền cùng sinh hoạt tu hành.
260-
TỔNG TRÌ: 總持
Tổng
tất
cả pháp, trì tất cả nghĩa. Tổng trì tất cả pháp
nghĩa, chẳng thiếu sót một pháp một nghĩa.
261-
TRÊN ĐỈNH CÔ PHONG: 孤峰頂上
Chỗ
đỉnh
núi cao tột, dụ cho kẻ kiến tánh mới có đủ tư
cách cư trú tại đó.
262-
TRI KHÁCH: 知客
Trong
Tòng
lâm, người tiếp đãi tân khách, có quyền nhận chúng.
Người cầu nhập chúng phải qua tri khách thẩm vấn, nếu
Tri khách không chấp nhận thì không được ở lại.
263-
TRI KHỐ: 知庫
Người
quản
lý tiền tài, vật chất, lương thực trong Tòng lâm.
264-
TRI LIÊU: 知寮
Người
quản
lý các liêu phòng, trông coi chỗ ở của Tăng chúng.
265-
TRÌNH GIẢI: 呈解
Là
trình
kiến giải hoặc sở ngộ của mình để xin thầy ấn
chứng.
266-
TRI SỰ: 知事
Người
quản
lý, điều động nhân sự trong Tòng lâm.
267-
TRI TẠNG: 知識
Người
quản
lý kinh sách của Tòng lâm.
268-
TRI VIÊN: 知圓
Cũng
gọi
là Viên đầu, người trông coi vườn tượt trồng trọt
ở Tòng lâm.
269-
TRUNG ĐẠO: 中道
Chẳng
lọt
hai bên tương đối gọi là Trung đạo, cũng chẳng trụ
nơi chính giữa.
270-
TRUYỀN ĐĂNG: 傳燈
Tổ
Sư
Thiền do Tổ sư từ đời từ đời truyền xuống, giống
như đèn này truyền qua đèn kia, một đèn có thể truyền
sang muôn ngàn đèn, mọi đèn đều sáng tỏ; cái ánh sáng
của đèn số một (Sơ Tổ) cũng không giảm bớt một tí.
271-
TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU: 傳心法要
Tổ
sư
Thiền tông đem yếu chỉ tham thiền đời đời tương truyền
cho thiền giả, y theo pháp yếu tu tập thì được minh tâm
kiến tánh, giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự
tại vĩnh viễn.
272-
TRƯỚC TƯỞNG: 著想
Tư
tưởng
chấp thật.
273-
TU ĐA LA: 修多羅 Sùtra
Dịch
là
khế kinh, tức là kinh điển khế hợp căn cơ trình độ
của chúng sanh, cũng là đúng theo ý Phật.
274-
TỤC ĐẾ: 俗諦
Tự
tánh
bất nhị chẳng thể diễn tả, nay vì muốn độ người
thế tục nên miễn cưỡng chia làm hai mặt (bề mặt và bề
trái) để diễn tả. Việc dùng lời nói phương tiện để
diễn tả bề trái, như bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm, phi hữu, phi vô… gọi là Tục đế.
275-
TƯ HOẶC: 思惑
Có
chấp
tư tưởng sai lầm là Tư hoặc.
276-
TỨ BẤT KHẢ KHINH: 四不可輕
1.
Thái
tử dù nhỏ sẽ làm Quốc vương, nên bất khả khinh.
2. Con rắn dù nhỏ, độc hay giết người, nên bất khả khinh.
3. Ngọn lửa dù nhỏ, hay sanh hỏa hoạn, nên bất khả khinh.
4. Sa di dù nhỏ hay chứng Thánh quả, nên bất khả khinh.
277-
TỨ BẤT KHẢ THUYẾT: 四不可說
1.
Sanh
bất khả thuyết. 2. Sanh bất sanh bất khả thuyết. 3.
Bất sanh sanh bất khả thuyết. 4. Bất sanh bất sanh bất khả
thuyết.
278-
TỨ CÚ: 四句
Là:
có,
không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không. Phàm
tương đối đều ở trong Tứ cú, như chân, giả, nói, nín…
(chân, giả, chẳng chân chẳng giả, cũng chân cũng giả; nói,
nín, chẳng nói chẳng nín, cũng nói cũng nín). Tất cả tri
kiến tư tưởng của người đời đều chẳng ra ngoài Tứ
cú này.
279-
TỨ ĐẠI: 四大
Vật
chất
thuộc cố thể là địa đại, dịch thể là thủy đại,
nhiệt độ là hỏa đại, khí thể là phong đại; nói chung
là Tứ đại.
280-
TỨ LIỆU GIẢN: 四料簡
Đoạt
cảnh
chẳng đoạt nhân, Đoạt nhân chẳng đoạt cảnh, Cảnh
nhân đều đoạt, Cảnh nhân đều chẳng đoạt.
281-
TỨ NHIẾP PHÁP: 四攝法
1.
Bố
thí: đối với người ham tài thì bố thí tài, ham pháp
thì bố thí pháp. 2. Ái ngữ nhiếp: dùng ngôn ngữ ôn hòa
từ ái khiến người sanh tâm hoan hỷ. 3. Lợi hành nhiếp:
dùng hành vi tổn mình lợi người để cảm hóa người. 4.
Đồng sự nhiếp: tự hạ địa vị mình vì độ kẻ hạ tiện
thì đồng sự với kẻ hạ tiện, vì độ kẻ ăn xin thì đồng
sự với kẻ ăn xin, cho đến vì độ chó, heo thì đồng sự
với chó, heo (đầu thai thành chó, heo).
282-
TỨ TẦM TƯ QUÁN: 四尋思觀
1.
Danh
tự tầm tư: truy cứu danh tự của tất cả pháp đều
chẳng thật. 2. Sự tướng tầm tư: truy cứu mỗi mỗi sự
tướng hiện tượng trên thế giới đều do tâm thức biến
hiện, nhân duyên sở hành lìa thức chẳng có. 3. Tự tánh
giả lập tầm tư: truy cứu của danh tự và sự tướng, chỉ
là phương tiện giả lập, tánh độc lập đều bất khả
đắc. 4. Sai biệt giả lập tầm tư: truy cứu các tướng sai
biệt của danh tự hoặc sự cũng đều giả lập chẳng thật.
283-
TỨ THIỀN BÁT ĐỊNH: 四禪八定
Là
sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, là bốn lớp
thiền của cõi trời Sắc giới. Có thiền là có định, nên
Tứ thiền cũng là bốn thứ định, cộng thêm bốn thứ định
của cõi trời Tứ không (Vô sắc giới) thành tám thứ định,
gọi chung là Tứ Thiền Bát Định.
284-
TỨ THIỀN BỆNH: 四禪病
Là
tác
(làm), chỉ (ngưng), nhậm (mặc kệ), diệt. Sự kiến tánh
chẳng do tác, chẳng do chỉ, chẳng do nhậm, chẳng do diệt,
nếu chấp vào thì thành bệnh. Nhưng người chưa kiến tánh
thì có thể dùng làm thuốc.
285-
TỨ TRÍ: 四智
Duy
Thức
tông chuyển bát thức thành Tứ trí; chuyển Tiền ngũ
thức thành ‘Thành sở tác trí’, chuyển thức thứ sáu thành
‘Diệu quan sát trí’, chuyển thức thứ bảy thành ‘Bình
đẳng tánh trí’, chuyển thức thứ tám thành ‘Đại viên
cảnh trí’. Hoàn thành tác dụng mà chẳng phân biệt, gọi
là Thành sở tác trí; quan sát thấu triệt mà chẳng qua sự
tác ý, gọi là Diệu quan sát trí; phá hết ngã chấp, thấy
các pháp bình đẳng, gọi là Bình đẳng tánh trí; như gương
tròn soi khắp mười phương thế giới chẳng có thiếu sót,
gọi là Đại viên cảnh trí.
286-
TỨ VÔ NGẠI TRÍ: 四無礙智
1.
Thông
đạt danh tự của các pháp vô ngại, gọi là Pháp vô
ngại trí. 2. Thông đạt tất cả các nghĩa lý vô ngại, gọi
là Nghĩa vô ngại trí. 3. Hay dùng đủ thứ từ ngữ phương
tiện tùy nghi diễn thuyết, gọi là Từ vô ngại trí. 4. Nơi
các pháp nghĩa viên dung vô ngại, khéo thuyết tự tại, khiến
chúng sanh dễ được tín giải thọ trì, gọi là Khéo thuyết
vô ngại trí. Nói chung gọi là Tứ vô ngại trí.
287-
TỨ PHÁP Y (y là căn cứ theo): 四依法
1.
Y
pháp bất y nhân. 2. Y nghĩa bất y ngữ. 3. Y trí bất y thức.
4. Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.
288-
TỪ BI: 慈悲
Từ
là
ban vui cho người, Bi là cứu khổ cho người. Phật pháp
nói vô duyên từ, đồng thể bi. Vô duyên thì chẳng có năng
sở, nên chẳng có năng thí sở thí. Đồng thể thì chẳng
phân biệt mình với người, nên khổ của người tức là
khổ của mình, vui của người tức là vui của mình.
289-
TỰ TÁNH: 自性
Bản
thể
của tâm vô hình vô thanh cùng khắp thời gian không gian,
cái dụng cũng cùng khắp như thế, chẳng cần qua tác ý mà
ứng dụng tự động. Chúng sanh với chư Phật bình đẳng
bất nhị.
290-
TỶ LƯỢNG: 比量
Người
tu
chánh pháp phải giác ngộ, dùng thí dụ để thuyết minh
thực tướng của hiện lượng, khiến người phát khởi tín
giải, gọi là Tỷ lượng.
291-
VIÊN GIÁC: 圓覺
Là
giác
ngộ bản thể tự tánh vốn viên mãn, cùng khắp thời
gian không gian.
292-
VIỆN CHỦ: 院主
Ở
Trung Quốc, viện chủ là chủ nhiệm một tòa nhà trong Tòng
lâm, ở dưới quyền Trụ trì.
293-
VÔ KHẨU: 無口
Vô
khẩu
thì vô thuyết vô thị (khai thị), gọi là chân thuyết;
vô thuyết thì vô thính vô văn (nghe), gọi là chân văn.
294-
VÔ KÝ KHÔNG: 無記空
Kẻ
tham
thiền nếu chẳng có nghi tình, cũng chẳng có vọng tưởng,
trong tâm như một tờ giấy trắng, tức lọt vào Vô ký không,
là thuộc về thiền bệnh.
295-
VÔ LẬU: 無漏
Không
có
tập khí phiền não là vô lậu.
296-
VÔ NIỆM: 無念
Tức
là
bản niệm sẵn có, chẳng nổi một niệm nào khác. Nghĩa
là nơi Thế lưu bố tưởng chẳng sanh ra trước tưởng, chẳng
phải trăm điều chẳng nghĩ, nếu trăm điều chẳng nghĩ là
niệm tuyệt đều chẳng phải bản ý của vô niệm.
297-
VÔ MINH: 無明
Một
niệm
chưa sanh khởi là vô thủy vô minh, một niệm mới khởi
liền thành nhất niệm vô minh. Tiền niệm diệt, hậu niệm
sanh, sanh diệt liên tục thì thành sanh tử luân hồi.
298-
VÔ SANH: 無生
Vô
sanh
tức vô thủy, vô thủy tức vô sanh, như con gà với trứng
gà đều chẳng có sự bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa
vô sanh.
299-
VÔ THỦY: 無始
Vũ
trụ
vạn vật đều chẳng thể tìm tòi sự bắt đầu, vì
thời gian vốn chẳng trước sau, nói trước chẳng có thủy,
nói sau chẳng có chung, đây cũng là cái nghĩa các pháp vô
sanh.
300-
VÔ THỦY VÔ MINH: 無始無明
Trước
khi
một niệm chưa sanh khởi gọi là vô thủy vô minh. Đây
là nguồn gốc của ý thức, Thiền tông gọi là thoại đầu,
cũng gọi là đầu sào trăm thước. Khi ấy trong tâm thanh thanh
tịnh tịnh chưa có thức phân biệt, khi bị ngoại cảnh kích
thích nổi lên một niệm thì trở thành nhất niệm vô minh.
301-
VÔ TRỤ: 無住
Chẳng
chấp
thật thì chẳng trụ một cú nào trong tứ cú, ngay khi
đó tự tánh hiện hành, lìa tương đối mà nhập vào cảnh
giới tuyệt đối.
302-
VÔ TƯỚNG: 無相
Cảnh
giới
do lục căn tiếp xúc lục trần cảm biết được, nếu
chấp là thật thì có tướng, nếu không chấp là thật thì
vô tướng.