Giáo Lý Đạo Phật Về Tái Sanh

16 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7497)
Giáo Lý Đạo Phật Về Tái Sanh


GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT VỀ TÁI SANH
HT. Narada (Nguyễn Trạch Thiện dịch)

Giáo lý về sự Tái Sanh chẳng phải là một lý thuyết, người Phật tử xem nó như là một sự thật, không chối cãi được. Nó là căn bản của Phật giáo.
Mục Lục
1. Quan niệm về tái sanh
2. Đâu là nguồn gốc tường tận của sự sống?
3. Do đâu chúng ta tin có sự tái sanh?
4. Nghiệp báotái sanh biện minh những chi?
5. Triều lưu diễn tiến của sự tái sanh.
6. Hình thức của sanh tử .
7. Sự tái sanh xuất hiện cách nào?
8. Cái gì đi tái sanh?
9. Có người nào tạo tác trong đời này, và một người khác phải gặt quả trong kiếp sống sau chăng?
10. Nếu khônglinh hồn, như vậy có một trách nhiệm nào về tinh thần đạo đức chăng?
11. Có thể nào một người kia sẽ tái sanh lại làm thú vật không?
-ooOoo-
Từ đây ta sẽ đi về đâu ?... nào biết!
Chừng nào đi ?... nào biết!
Ta chỉ biết một điều và biết chắc như vậy,
là ngày nào đây nhất định ta phải ra đi.
1. Quan niệm về tái sanh
Giáo lý về sự Tái Sanh chẳng phải là một lý thuyết, người Phật tử xem nó như là một sự thật, không chối cãi được. Nó là căn bản của Phật giáo.
Hạnh nguyện của chư vị Bồ Tát và chủ trương tự do tiến hóa đến nơi tận thiện, tận mỹ đều căn cứ trên giáo lý tái sanh này.
Sách vở có ghi chép rằng Chúa Jésus, nhiều bậc hiền triết như Pythagore, Platon, nhiều thi sĩ như Shelly, Tennyton, Wordsworth và một số người Âu Châu, Á Châu đều thừa nhậntin tưởng có sự Luân Hồi, hoặc có linh hồn đi đầu thai.
Giáo lý về sự tái sanh của Phật giáo khác hẳn với quan niệm Luân Hồiđầu thai của linh hồn bởi Phật giáo không nhìn nhận có một linh hồn trường tồn bất diệt để chuyển sanh từ kiếp này qua kiếp khác, dầu là linh hồn do Thượng Đế sanh ra, hay từ trong cái Đại Hồn (Paramàtama) tách ra.
Chỉ có nghiệp quả mới cấu tạo được sự tái sanh. Do nghiệp quá khứ mới có sự tái sanh hiện tại. Do nghiệp hiện tại hiệp với nghiệp quá khứ mới có sự tái sanh vị lai. Hiện tại là con đẻ của quá khứtrở thành thân sinh của vị lai.
Hiện hữu của hiện tại không cần có bằng chứng vì nó rất rõ rệt.
Hiện hữu của quá khứ căn cứ trên trí nhớtục truyền.
Hiện hữu của vị lai căn cứ trên tiên đoán và suy luận.
Nếu có sự sống quá khứ, hiện tạivị lai, thì tức nhiên phải đương đầu với một nan đề: Đâu là nguồn cội của sự sống?
tôn giáo cho rằng sự sống sanh ra bởi một bản nguyên, một năng lực thiêng liêng hay một đấng Toàn Năng. Có tôn giáo khác thì lại nói rằng trong vòng nhân sanh quả, quả sanh nhân, không thể biết được nhân nào là nhân đầu tiên.
Theo giới hạn hiện thời của khoa học, con người sanh ra do tinh trùng và noãn bào của cha mẹ; nhưng khoa học lại không giải rõ rệt được sự phát triển của tinh thần, là phần quan trọng hơn thể xác. Các nhà khoa học vừa nói rằng sự sống sanh ra bởi sự sống mà cũng vừa xác nhận rằng tinh thần và sự sống sanh ra từ chỗ không có sự sống. khoa học chỉ biết nội cái giới hạn cha mẹ sanh ra con, nghĩa là trước phải có sự sống của cha mẹ rồi sau mới có sự sống của con. khoa học chưa tìm ra cái khởi thủy của sự sống.
Vài tôn-giáo khác cho rằng bản chất của con ngườilinh hồn sanh ra bởi Ông Trời. Cha mẹ chỉ giúp phần cấu tạo cái bọc thô sơ bên ngoài cho linh hồn mà thôi.
Theo Phật giáo thì chúng ta sanh ra từ cái khuôn đúc (kammayoni) của các hành động của chúng ta, cha mẹ chỉ cho ta cái nền tảng vật chất mà thôi. Như thế ấy thì trước phải có chúng sanh (cha mẹ), rồi sau mới có chúng sanh (con). Lúc thọ thai, nghiệp tạo ra cái thức đầu tiên, thức tái sanh, để dưỡng sanh thai bào. Năng lực vô hình của nghiệp đã tạo ra trong kiếp quá khứ sanh ra một hiện tượng tinh thần kết hợp hiện tượng sinh khí trong một hiện tượng thể xác đã sẵn có, để có đủ ba yếu tố Thức, Sinh Khí và Thai. Chính ba yếu tố này tạo thành con người.
Nói đến quan niệm về chúng sanh, Đức Phật có thuyết trong bộ Kinh MAJJHIMA NIKAYA, quyển AHATANHAKHAYA, số 38, như vầy: ở nơi nào Tam-Nguyên được cấu tạo chung thì mầm sống được gieo trồng nơi ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc thọ thai của người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai (Gandhabba), thì mầm sống không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ mà không có chúng sanh đầu thai thì mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt trong lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm sống được gieo trồng.
Danh từ Gandhabba hay Gantabba không phải tên của Mụ Bà hay Đức Thầy chi chi đó có phận sự bảo hộ thai bào, theo sự tin tưởng của nhiều người. Đây chỉ nói về một chúng sanh đủ điều kiện, sẵn sàng đến thọ sanh trong bụng của một chúng sanh. Danh từ Gandhabba chỉ dùng trong trường hợp đặc biệt này thôi, chớ nên lầm tưởng là một linh hồn bất diệt.
Nếu có một chúng sanh sắp thọ sanh nơi đây, thì phải có một chúng sanh sắp chết ở một nơi nào khác. Sự sanh của một chúng sanh, tức là sự kết hợp (Khandaman Patubhavo) hai cái hiện tượng về tinh thầnvật lý, tương hợp với sự diệt của một chúng sanh trong quá khứ, giống như sự xuất hiện của mặt trời vậy. Mặt trời mọc một nơi nào, có nghĩa là mặt trời lặn một chốn khác. Muốn cho dễ hiểu hơn, chúng ta tưởng tượng đời sống như một lượn sóng. Sanh và diệt là hai giai đoạn của sự diễn tiến sống chết, chết sống. Sự liên tục tiếp nối mãi của sống chết, chết sống và nguồn sinh lực của mỗi cá nhân, được gọi là Luân Hồi (samsàra).
2. Đâu là nguồn gốc tường tận của sự sống?
Đức Phật đã nói rằng: Luân Hồi ở bên ngoài ranh giới cuối cùng của sự hiểu biết.
Chúng ta không thể biết được cái khởi thủy của chúng sanh, vì vô minhphiền não của lòng ham muốn làm lôi kéo luân chuyển triền miên.
Triều lưu của sự sống cuộn chảy mãi mãi, do các dòng nước nhơ đục của vô minhái dục bồi dưỡng không ngừng nghỉ. Khi nào hai nhân này bị cắt đứt, thì triều lưu của sự sống mới ngưng chảy, sự tái sanh sẽ chấm dứt, y như trường hợp của Chư Phật và Chư A-La-Hán. Khởi thủy của triều lưu sự sống không thể biết được vì nó phát sanh do một mãnh lực đầy vô minhái dục.
Nơi đây Đức Phật chỉ nói về triều lưu sơ khởi của sự sống loài người thôi và không đề cập đến những huyền học hay đạo lý nào có thể làm cho con người hoang mang, luôn cả những lý thuyết không có tánh cách xây dựng hay giải thoát, nhứt là những nghiên cứu biện luận về nguồn gốc và sự tiến triển của vũ trụ. Đức Phật cũng không bắt buộc môn đệ Ngài phải tin tưởng một cách mù quáng về những gì liên quan đến nhân khởi thủy. Ngài đặc biệt chú trọng vấn đề Khổ và Diệt Khổ thôi, ngoài mục đích xác thực duy nhứt ấy, Ngài không muốn đá động đến vấn đề nào khác.
3. Do đâu chúng ta tin có sự tái sanh?
Đức Phật là bậc thông suốt về vấn đề tái sanh. Chính trong đêm chứng đạo quả Niết-Bàn, trọn canh đầu, Ngài dùng tuệ-giác rọi xem trở lại các đời dĩ vãng của Ngài, từ một, hai, ba đến trăm ngàn muôn kiếp quá khứ. Trong canh hai, Đức Phật dùng thiên nhãn, xem thấy chúng sanh chết ở kiếp này, tái sanh lại kiếp khác, kẻ hèn người sang, kẻ đẹp người xấu, kẻ được hạnh phúc, người bị khốn khổ, tùy theo hành vi của họ (Majjhima Nikàya, Maha Accaka Sutta, 36)
Các đoạn kinh giải về thuyết tái sanh cho chúng ta biết rằng Đức Phật không dựa vào một nguồn gốc nào đã sẵn có để giải thích vấn đề ấy. Ngài chỉ nói theo nhận thức siêu phàm của chính Ngài mà chúng ta cũng có thể đạt được nếu biết trau giồi đúng mức.
Trong kinh DHAMMAPÀDA (Pháp Cú), Đức Phật có nói: " Trải qua vô lượng kiếp Luân Hồi (Anekajàti), Như Lai đã phải đi lạc đường, trong khi muốn tìm cho ra người thợ cất nhà này; khốn khổ thay, Như Lai đã phải sanh đi, sanh lại triền miên (Dukkha jàti puna punam) ".
Trong kinh DHAMMACAKKA SUTTA có ghi lời giảng đầu tiên của Đức Phật về cái chân lý thứ hai như vầy:
"Yàyam Tanhà Ponobhavikà", nghiã là sự ham muốn quá độ (Ái Dục) đem lại sự tái sanh; và câu kết luận:
"Ayamantimà jàti Natthidam Punhabavo" , nghiã là kiếp này là kiếp sống cuối cùng của Như Lai.
Trong kinh Majjhima Nikàya có ghi rằng vì lòng Từ Bi Bác-Ái đối với chúng sanh, Đức Phật thường rọi thiên nhãn tìm người hữu duyên để tế-độ. Ngài thấy chúng sanh đương tạo nhiều tội lỗiảnh hưởng đến kiếp vị lai của họ. (Paraloka Vajja Bhaya Dassàvino).
Trong nhiều thời pháp, Đức Phật thường nói rằng chúng sanh nào làm dữ, sau khi chết (Parammarana) sẽ tái sanh trong cảnh khổ; chúng sanh nào làm lành sẽ tái sanh trong cảnh vui.
Trong kinh GHANTIKARA SUTTA , Đức Phật thuật lại cho Đại đức ANANDA biết rằng vào thời kỳ Phật Tổ KASSAPA (Ca Diếp), Ngài sanh làm một vị Bà-La-Môn, tên Jotipãla , thông suốt ba bộ kinh Phệ Đà. Khi vào xuất gia theo Phật Tổ KASSAPA, Ngài siêng năng thọ trì Tam Học, thuộc nằm lòng trọn bộ Tam Tạng, và được Phật Tổ KASSAPA thọ ký.
Trong kinh ANÀTHAPINDIKAVADA SUTTA có ghi truyện nhà trưởng giả Cấp Cô Độc, sau khi chết liền tái sanh vào cảnh Trời, có về viếng thăm Đức Phật trong đêm sau.
Trong kinh Anguttara Nikàya , Đức Phật có nói đến kiếp quá khứ của Ngài, khi Ngài sanh lên làm PACETANA.
Trong kinh PARANIBBÀNA SUTTA, Đại đức ANANDA có xin Đức Phật cho biết kiếp vị lai của vài người vừa chết trong làng nọ. Đức Phật đã cắt nghiã rõ rệt cho Ngài ÀNANDA biết những người ấy đã đi tái sanh nơi đâu.
Còn rất nhiều sự tích trong Tam Tạng chỉ cho mọi người biết rằng Đức Phật đã xác nhận sự tái sanh là một sự thật không thể chối cãi được.
Thực hành đúng theo giáo lý của Đức Phật, các đệ tử Ngài có thể mở mang sự hiểu biết về quá khứ và có thể biết ít nhiều về tiền kiếp của họ. Riêng về Đức Phật, Ngài thấu rõ vô số kiếp quá khứ của Ngài.
Trước thời Đức Phật ra đời, một số người Ấn Độ Rishis được nổi tiếng nhờ họ có thần thông về thiên nhãn, thiên nhĩ, thần giao cách cảm, viên giác, v.v....
Mặc dầu khoa học chưa tiến tới mức ấy, nhưng trong Phật giáo, người ta có thể đạt được các pháp thần thông bằng cách chuyên tu về thiền định, minh sát. Năng lực thiền định không xuyên qua ngũ căn, có thể đem lại sự giao cảm bằng tư tưởngtri giác với các cảnh giới khác.
Cũng có nhiều người khác thường, nhất là các trẻ em, do luật phối hợp bất ngờ, sực nhớ lại kiếp quá khứ, hoặc vài chi tiết về đời trước của họ. Các trường hợp ít có này, đủ làm cho người học giả tin nơi kiếp quá khứ. Người ta thuật lại rằng ông PYTHAGORE đã nhớ lại tường tận một cái thuẫn trong một đền thờ Hy Lạp, là vật mà ông đã dùng trong một tiền kiếp lúc vây hãm thành TROIE.
Do thí-nghiệm của các nhà tâm linh học, những hiện tượng ma quỉ, những giao cảm tư tưởng giữa hai cảnh âm dương, những thiên tư khác thường đã đem lại ít nhiều sáng tỏ trong vấn đề tái sanh.
Có lúc tình cờ, chúng ta gặp những người xa lạ, mà chúng ta lại có cảm giác như quen biết họ từ lâu. Đôi khi trước những cảnh vật xa lạ, thình lình chúng tacảm tưởng đã quen thuộc với cảnh vật ấy. Những sự khêu gợi bất ngờ này không ngoài chứng tích đã kinh nghiệm trong thời gian quá khứ.
Sự thông suốt mọi lẽ của các bậc Siêu Phàm, các bậc Toàn Giác như Đức Phật chẳng phải là chuyện phi thường tình cờ, cũng chẳng phải là kết quả của những kinh nghiệm trong một kiếp sống mà thôi.
Ngoài các lý do kể trên, chúng ta không thể giải thích cách nào về thiên tài xuất chúng của các ông Homère, Platon, Shakespeare, của những thần đồng như Pascal, Mozart, Beethoven, v.v ...
Vài bác-sĩ cho rằng sự thông minh của các thần đồng là kết quả của những hạch tuyến khác thường, nhứt là hạch màng mũi, tùng quả tuyến và thận tuyến.
Nếu không tin sự giải thích theo nghiệp quả mà chỉ căn cứ nơi sự phát triển khác thường của các thứ hạch nói trên, thì không biết khoa học giải thích thế nào về trường hợp của ông Christian Heinecken. Vài giờ sau khi ông ra đời, ông đã nói chuyện được; khi ông được một tuổi, ông trả thuộc lòng vài đoạn Thánh Giáo trong cuốn Sấm truyền; đến hai tuổi, ông trả lời tất cả những câu hỏi về địa dư; đến ba tuổi, ông nói tiếng Pháp, tiếng La tinh; đến bốn tuổi, ông có thể theo học các lớp triết học.
Ông Stuart Mill vừa ba tuổi đã đọc chữ Hy Lạp. Ông Macaulay, lúc sáu tuổi, viết sử ký thế giới. Ông William James Sidis vừa mới lên hai đã đọc và viết chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ), đến tám tuổi đã nói các thứ tiếng Pháp, Nga, Anh, Đức và chút ít tiếng La Tinh và Hy Lạp.
Khoa học không thể giải thích tại sao các hạch tuyến chỉ phát triển trong một vài người, mà không trổ sanh cho tất cả. Vấn đề chánh này không thể giải quyết được. Cũng không thể đổ cho sự di truyền, bởi các thần đồng nói trên không phải người thừa hưởng nơi ông cha và cũng không thể nối truyền lại cho con cháu được. Cũng không thể nói rằng những kết quả tốt đẹp ấy do nơi công trình thu thập trong thời gian đôi ba chục năm, trong đời sống hiện tại ngắn ngủi này. Mà đó là bao nhiêu cố gắng, tập sự trong nhiều kiếp người, để tiến lần hồi đến sự tận thiện, tận mỹ trong những kiếp sau.
Nếu ta tin tưởng nơi hiện tạivị lai, lẽ tất nhiên ta không thể không nhìn nhận có quá khứ. Và nếu có đủ lý lẽ cho ta tin rằng ta đã có sống trong quá khứ, thì không lý do nào ta không tin rằng ta sẽ còn phải sống trong vị lai sau khi hiện tại này chấm dứt.
4. Nghiệp báotái sanh biện minh những chi?
1) Vấn đề khổ mà chính ta phải chịu trách nhiệm;
2) Sự chênh lệch gần như bất công giữa nhân loại;
3) Tại sao có những vĩ nhân và thần đồng;
4) Sự khác nhau về tinh thần tính nết của hai trẻ sanh đôi, mặc dầu giống nhau y hệt về thể xác và được nuôi dưỡng y như nhau;
5) Sự khác nhau về tánh tình, xu hướng của các trẻ trong một gia đình;
6) Sự khác nhau về đạo đứctrí huệ giữa cha mẹ và con cái;
7) Tật xấu tự nhiên của trẻ thơ, như tham lam, sân hậnganh ghét;
8) Mối thiện cảm hoặc ác cảm của chúng sanh đối với nhau trong khi gặp gỡ lần đầu tiên;
9) Điều lành và điều dữ đã sẵn có trong mỗi người;
10) Sự thay đổi bất ngờ của một người thiện trí thức ra một kẻ tầm thường, hoặc một kẻ sát nhân thành bực thánh nhân;
11) Cha mẹ đạo đức sanh con hung ác, cha mẹ hung ác sanh con hiền từ;
12) Tại sao có khi ta là kết quả của hành vi quá khứ và sẽ là kết quả của hành vi hiện tại, hoặc có khi ta không phải là kết quả hoàn toàn của hành vi quá khứ, mà cũng sẽ không phải là kết quả nguyên vẹn của hành vi hiện tại;
13) Tại sao có những cái chết bất đắc kỳ tử và sự thay đổi tài sản sự nghiệp một cách bất ngờ;
14) Những đặc tính xuất chúng, tinh thần đạo đức trí tuệ viên mãn của các bậc toàn giác như Đức Phật.
5. Triều-lưu diễn tiến của sự tái sanh
Bài pháp PATICCA SAMUPPÀDA đã giải thích đầy đủ cách diễn tiến của sự tái sanh. Paticca nghĩa là do nơi hay vì lẽ. Samuppàda nghĩa là phát sanh hay nguồn gốc. Paticca Samuppàda là "sự phát sanh tùy thuộc" hay "nguồn gốc liên quan" hay "nhân quả tương quan".
Pháp Paticca Samuppàda chỉ giải thích về sanh tử khổ và không đề cập đến sự tiến triển vũ trụ từ thể chất nguyên thủy, cùng những bí ẩn về nguồn gốc tuyệt đối của sự sống.
Vô minh (Avijjà) là không hiểu biết thật tướng của sự vật, là mối dây đầu tiên, hay là nhân khởi thủy của bánh xe Luân Hồi. Nó che đậy tất cả sự hiểu biết chân chánh.
Do nơi Vô Minh mới phát sanh hành vi tạo tác (Sankhàrà), gồm cả tư tưởng, lời nóiviệc làm, lành dữ. Các hành động phát khởi từ Vô Minh hay nhuộm mầu sắc Vô Minh, sớm muộn sẽ đem lại kết quả để cột trói ta trong vòng Luân Hồi. Những việc lành dầu không do lòng tham sân si, cũng phải dứt tuyệt bợn nhơ, mới mong giải thoát Luân Hồi. Vì thế nên Đức PhậtPháp Bảo của Ngài như con thuyền bát nhã chở đưa khách lữ-hành qua khỏi sông mê biển khổ.
Hành động của Chư Phật và Chư A La Hán không được coi như là Sankhàrà , vì nó không bị Vô Minh chi phối.
Do nơi Hành mới phát sanh cái Thức (Patisandi Vinnàna). Người ta gọi là thức tái sanh vì nó nối liền quá khứ với hiện tại. Chính nó đã phát sanh trong lúc thọ thai.
Danh Sắc hay Tinh-Thần và Vật-Chất (Nàma-Rùpa) cũng đồng thời phát sanh một lượt với cái Thức.
Lục Căn (Salàyatana) phát sanh do hiện tượng thuộc về tinh thần vật lý.
Do Lục Căn mà có sự Tiếp Xúc (Phassa).
Sự Tiếp Xúc đem lại cảm giác, tức là Thọ (Vedanà).
Do sự cảm giác mới phát sanh sự ham muốn ái Dục (Tanhà).
Ham muốn sinh ra sự bám víu, tức là Thủ (Upàdàna).
Thủ gây ra Nghiệp Quả, tức là Hữu (Bhava).
Nghiệp Quả gây ra kiếp vị lai , tức là SANH (Jàti)
Già và chết (Jàti-marana) là kết quả không tránh được của sự Sanh.
Do một nhân có một quả phát sanh. Nhân dứt thì quả cũng dứt. Muốn dễ hiểu nên diễn ngược lại pháp PATICCA SAMUPPÀDA.
Sự già và chết chỉ có thể có được trong một bộ máy có lục căn, gọi là thân thể. Thân thể ấy có do nơi sự Sanh. Sự Sanh sản lại là cái quả của những hành vi quá khứ. Hành vi được sanh ra bởi sự bám víu, đã phát sanh do sự Tham Muốn. Những Tham Muốndo nơi cảm giác. Cảm giác có do sự Tiếp Xúc giữa Giác quan và Sự vật. Giác quan này có không ngoài tâm và thân thể. Thân Tâm lại phát sanh do nơi Thức. Thức phát sanh do nơi không hiểu biết tánh chất thiệt thọ của sự vật.
Sự diễn tiến của Sống và Chết cứ xảy ra mãi mãi không cùng tận. Manh mối đầu tiên của sự diễn tiến ấy không thể biết được; cũng như ta không thể biết đến lúc nào sự tiến triển ấy hết bị Vô Minh chi phối. Chừng nào sự mê lầm của ta đuợc thay thế bằng sự sáng suốt thấu rõ Niết Bàn; chừng ấy sự diễn tiến của Tái Sanh mới chấm dứt.
6. Hình thức của sanh tử
Dùng những danh từ riêng biệt tinh tế giải thích sơ lược diễn tiến của sự Tái Sanh, Phật Giáo cho rằng cái chết là do một trong bốn nguyên nhân sau đây:
1) Tận Nghiệp (Kammakhaya): sự suy kiệt năng lực tái tạo của Nghiệp (hết Nghiệp). Theo Phật Giáo, cái tư tưởng, tác ý hoặc ái dục, là một năng lực vô cùng mạnh mẽ trong lúc sinh thời; đến lúc chết, năng lực lại còn mạnh hơn muôn phần. Chính tư tưởng cuối cùng ấy định đoạt điều kiện cho kiếp sống vị lai. Đến lúc lâm chung, tư tưởng biểu xuất một tiềm lực đặc biệt. Khi tiềm lực của Tận Nghiệp này (của kiếp hiện tại) tắt mất, thì những hoạt động của cơ thể và nguồn sinh khí liền chấm dứt trước phút cuối cùng ấy. Điều này thường xảy đến cho những chúng sanh trong cảnh khổ (Apàya), nhưng cũng có khi xảy đến cho những người thuộc cảnh giới khác.
2) Mãn Kỳ Hạn của Kiếp Sống (Àyukhaya), kỳ hạn này khác nhau tùy cảnh giới, như trường hợp của người chết vì tuổi già, hết tuổi thọ.
3) Năng lực tái tạo của Nghiệp và kỳ hạn kiếp Sống đồng chấm dứt một lượt (Ubhayakhaya), vừa hết nghiệp, vừa hết tuổi thọ.
4) Sự phát động đối ứng của một nghiệp lực khác mạnh hơn, làm cắt đứt thình lình triều lưu của nghiệp Tái tạo, trước kỳ hạn của kiếp Sóng. Chết bất đắc kỳ tử hay chết yểu đều do nhân này.
Chết do ba nhân đầu, thường gọi chung là chết hợp thời (Kàlamarana). Chết do nhân thứ tư gọi là chết không hợp thời (Akàlamarana).
Tử có bốn nhân, Sanh cũng có bốn cách:
1) Sanh từ trong trứng (Andaja: noãn sanh);
2) Sanh từ trong thai (Jalapuja: thai sanh);
3) Sanh từ chỗ ẩm thấp (Samsadeja: thấp sanh);
4) Sanh từ sự đột biến (Upapatika: hóa sanh).
Những ấu trùng lấy nơi ẩm thấp làm tổ để nảy nở, như nhiều loại vi sinh vật gọi là thấp sanh. Những chúng sanh tự hóa sanh, thường mắt phàm tục không nhìn thấy được. Do điều kiện của nghiệp quá khứ, chúng sanh ấy tự nhiên xuất hiện, không phải đi ngang qua giai đoạn phát triển trong phôi thai. Hạng chúng sanh như Ngạ Quỉ (Preta), Trời (Deva)Phạm Thiên (Brahma) đều thuộc giới hóa sanh.
7. Sự tái sanh xuất hiện cách nào?
Ví dụ như một người sắp chết. Giai đoạn nguy biến này chẳng khác nào những sự giao động chập chờn của một ngọn đèn sắp tắt. Trong tâm người hấp hối này đã hiện ra một nghiệp tướng (Kamma nimitta) hoặc một biểu tượng thọ mạng (Gati nimitta). Những hiện tượng nghiệp này phát sanh do hành động tốt xấu trong lúc sanh tiền, hoặc tức khắc trước giờ cuối cùng.
Nghiệp tướng (Kamma nimitta) là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối, hoặc bằng sự thấy, bằng tiếng, bằng vị, bằng tư tưởng, mà trước kia nó là chủ yếu mạnh nhứt, trong một hành động lành hoặc dữ của người sắp chết; ví như thấy một con dao và những thú chết trong trường hợp anh đồ tể; hoặc là thấy bịnh nhân, nếu là một vị y sĩ dễ thương; hoặc là thấy vật sùng bái, nếu là một người mộ đạo,...
Biểu tượng thọ mạng (gati nimitta) có nghiã là một dấu hiệu của cảnh giới sắp tái sanh vào. Những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ não thường hay biểu hiện trên sắc diện của người hấp hối. Khi triệu chứng của kiếp vị lai phát sanh, nếu thấy xấu có thể sửa chữa kịp thời, bằng ảnh hưởng cảm hóa tư tưởng của người sắp chết. Dấu hiệu báo trước những điều sẽ đến cho thọ mạng thường là lửa, rừng núi, vú mẹ, thiên cung, v.v...
Theo Phật Giáo cái chết là sự đình chỉ của đời sống tinh thần vật lý của một cá nhân. Chết phát sanh bởi sự diệt tắt của tuổi thọ (àyu), mạng căn (Jivitindriya), chất hỏa (Usma)tâm thức (Vinnàna).
Cái chết chẳng phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, bởi mặc dầu chập sống cuối cùng đã chấm dứt, nhưng năng lực thúc đảy chập sống ấy vẫn còn nguyên vẹn. Cũng như ánh sáng đèn điện là cái biểu hiện bề ngoài của điện lực vô hình . Bóng đèn có thể bể, ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn còn, và ánh sáng có thể xuất hiện lại trong một bóng đèn khác.
Cũng như thế ấy, năng lực của nghiệp không bị lay chuyển bởi sự tan rã của xác thân. Cái thức hiện tại khuất đi, để nhường chỗ cho một thức tươi tắn mới mẻ sanh lên trong một đời sống khác. Tuy nhiên, không có cái chi gọi là bất di bất dịch, như một thực thể đơn thuần, trường tồn bất biến (hiểu như một linh hồn), chuyển tiếp từ kiếp hiện tại qua kiếp vị lai. Vành tròn bánh xe chấm trên mặt đất từng điểm một như thế nào, thì đúng vậy, chúng ta sống cũng từng chập một, như thế ấy. Chúng ta luôn luôn ở trong hiện tại, và hiện tại ấy luôn luôn nó trợt về quá khứ, không trở lại nữa.
Mỗi chập tâm thức của triều lưu sinh hóa thay đổi, tiêu tán, chuyển năng lực và mọi kinh nghiệm một cách không phai lạc cho chập tâm thức kế tiếp. Vì đó mà mỗi chập tâm thức hiện tại, chẳng những gồm cả năng lực tiềm tàng của các chập tâm quá khứ, lại còn thêm những gì khác nữa. Đến lúc chết, tâm thức diệt, cũng như nó diệt từng chập, để cho một tâm thức mới khác sanh lên. Tâm thức đổi mới ấy thọ hưởng cả một gia tài kinh nghiệm quá khứ. Những kỷ niệm ghi nhận sâu xa trong tâm thức thay đổi liên tiếp, những tiềm lực chuyển sang từ chập sống này qua chập sống khác, không liên hệ đến sự tan rã nhứt thời của phần vật chất, nên người ta có thể sực nhớ lại những tiền kiếp hoặc các điều đã xảy ra trong quá khứ. Nếu sự ghi nhớ chỉ tùy thuộc nơi tế bào của bộ óc, thì không có sự hồi ức về quá khứ được.
Tính chất liên tục của nguồn sống, đến lúc lâm chung, bị gián đoạn trong thời gian, nhưng triều lưu của tâm chẳng bao giờ bị ngưng trệ. Một tư tưởng này chuyển sang một tư tưởng khác, trong giờ sống cũng như trong lúc chết, vẫn in nhau; có khác là tại người nhìn vào xác chết mà tưởng tượng rằng khác đó thôi.
Sự tái sanh xuất hiện tức khắc, bất kể chỗ nào, như một làn sóng điện được phát ra trong không gian, tức khắc được thâu vào một máy vô tuyến điện.
Triều lưu của tâm cũng được tái sanh tức khắc khỏi phải trải qua một giai đoạn trung gian nào khác (Antarabhava).
Phật Giáo chính tông không công nhận rằng tâm thức của người quá vãng phải tạm trú một nơi nào, để chờ lựa chỗ đi luân hồi.
Bác sĩ Evens Wentz, chiếu theo tài liệu khảo cứu ở Tây Tạng, có viết rằng có một cảnh trạng trung gian cho chúng sanh tạm trú từ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 tuần (49 ngày); lập trường tạm trú này trái hẳn với giáo lý của Đức Phật.
Có một điều đáng hỏi: Vậy chớ tinh trùng và minh châu có sẵn sàng chờ đợi để tiếp rước cái tư tưởng đi tái sanh ấy chăng?
Theo Phật Giáo, chúng sanh nhiều vô lượng. Hơn nữa hột minh châu chẳng phải là con đường duy nhứt đem lại sự tái sanh. Quả Địa Cầu, một điểm vi tế trong sa bà thế giới, chẳng phải là chỗ sanh sản duy nhứt, mà loài người cũng không phải là loài chúng sanh duy nhứt, thì cũng có thể tin rằng không còn chỗ nào thích hợp để rước những làn sóng dao động cuối cùng của nguồn tư tưởng. Một điểm nào chẳng hạn, luôn luôn chực rước một viên đá từ không trung rớt xuống.
8. Cái gì đi tái sanh?
Nếu không phải là một linh hồn hay cái gì tương tự di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, thì cái gì đi tái sanh?
Trước hết, học thuyết Phật Giáo về luân hồi khác biệt với những giáo thuyết khác về Tái Sanh, hay chuyển di linh hồn, bởi vì Phật Giáo không chấp nhận sự hiện hữu của một linh hồn bất biến, bất diệt. Một linh hồn bất diệt nhất thiết phải không bao giờ thay đổi, cho dù xảy ra như thế nào. Để biện minh cho một đời sống tột độ hạnh phúc trên một thiên đàng trường cữu, hoặc một khổ hình vô tận, trong một địa ngục vỉnh viễn, một linh hồn bất di bất dịch là cần thiết, nếu không như vậy thì cái gì làm tội trên trần gian để phải chịu đền tội nơi âm ty?
Phật Giáo phủ nhận một bản thể trường tồn như thế.
Với tất cả sự thật, người Phật Tử không hình dung được sự hiện hữu của một linh hồn bất biến hay ngay cả một chúng sanh bất biến, cho dù chúng sanh này xuất hiện dưới hình thức trời, người hay thú vật. Những hình thái này chỉ là thể hiện của nghiệp lực. Quan niệm cá thể chỉ có ích cho những nhu cầu qui ước, nhưng trên thực tế cùng tột, nó chỉ là một hợp thể của tinh thầnvật chất.
Trong quyển "Tôn Giáo và Khoa Học", ông Bertrand RUSSEL có viết: Người ta phải nói rằng sự phân biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác đã tan ra mây khói rồi; vì vật chất đã mất cả thể tích của nó, cũng như linh hồn đã mất cả tính linh của nó rồi. Tâm lý học chỉ mới bắt đầu là một môn khoa học. Trong tình trạng hiện hữu của tâm lý học, sự tin tưởng về tính cách trường cữu của linh hồn không thể đòi hỏi cho khoa học tán trợ phần nào được.
Tác giả uyên bác của quyển "The Riddle of the Universe" (Sự bí ẩn của vủ trụ) có viết: "Biện chứng của thần linh học cho rằng ngôi tạo hoá đã thổi vào cho con người một linh hồn bất diệt" là chuyện thần thoại.
Vũ trụ học cho rằng: "Tinh thần giới của thế gian bắt buộc linh hồn con người phải trường tồn" là một giáo điều vô căn cứ.
Đạo đức học cho rằng: "Tật xấu và lòng tham nào chưa được toại nguyện trong đời sống dương thế phải được bù đắp do một luật công bình của bờ bên kia cảnh giới trường tồn"; điều ấy chỉ là sự mong ước cuồng nhiệt thôi.
Nhân chủng học cho rằng: "Sự tin tưởng nơi tính chất bất diệt, cũng như nơi Tạo Hóa, là một chân lý cố hữu của nhân loại" là một sự sai lầm hiển nhiên.
Bản thể học lý luận: "Cho rằng linh hồn là một thực thể vô hình và không phân chia ra được, không bao giờ bị dính mắc trong sự hư hoại của cái chết"; điều này căn cứ trên một quan niệm sai lạc về tâm linh, tức là một ảo mộng của Duy thần luận thôi.
Tất cả những biện chứng trên đây, cũng như tất cả những giả thuyết tương tự, về bản Ngã đều bị loại bỏ do sự chỉ trích của khoa học từ mười năm vừa qua.
Ông HUME, bằng phương pháp nội quán tâm linh, thấy rằng ở đây không có cái gì khác hơn là những trạng thái tâm thoáng qua, và đi đến kết luận: "Cái Ngã trường cữu lâu nay không có thật". Trong quyển "Sưu tầm linh hồn", ông viết: "Có những triết gia quan niệm rằng ở mọi lúc chúng ta ý thức được cái mà ta gọi là "Ngã", ta cảm nhận sự hiện hữuliên tục của nó, và chúng ta biết chắc tính cách vừa liên tục vừa độc nhất của nó". "Riêng tôi, khi tôi thâm nhập mật thiết vào cái gọi là "Bản Ngã" của tôi, tôi đều vấp phải vào một tri giác (perception) này hoặc một tri giác khác, như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, đau khổ hoặc sung sướng. Tôi chưa bao giờ bắt gặp được cái 'Tôi' và chưa quan sát thấy cái gì khác hơn là những tri giác; tôi thấy nhất thiết không cần có cái gì khác để tạo cái 'Bản Ngã' này thành một vô thể (non-identité) hoàn toàn.
BERGON viết: "Mọi tâm thức đều hiện hữu trong một thời gian và một trạng thái tâm không phải tồn tại lâu dài. Nó biến đổi không ngừng; trạng thái này dứt thì nó chấm dứt, nó chính là sự biến đ?i không sai".
Nghiên cứu về vấn đề linh hồn, Giáo sư William JAMES có viết: "Lý thuyết về linh hồn hoàn toàn vô ích, nhất là qua những dự kiện hiện nay đã được kiểm chứng bởi những thí nghiệm về tâm thức. Không ai có thể dẫn tới sự thừa nhận linh hồn bằng những lý lẻ khoa học chân xác. Cái 'Tôi' này là một vật kết hợp qua chiêm nghiệm của những sự vật đã được biết một cách khách quan. Cái 'chủ thể' chiêm nghiệm này không thể là chính nó, cũng không thể là vật kết hợp trên, cũng không thể được coi như là một thực thể siêu hình không biến đổi như Linh Hồn hay một nguyên lý Bản Ngã thuần khiết hiện hữu vượt thời gian. Nó là một tư tưởng, khác biệt ở mỗi chập với cái tư tưởng ở trước đó, nhưng vẫn thuộc về cái tư tưởng này, đồng thời có mặt với tất cả những gì mà tư tưởng này gọi là cái 'Tôi'.
Để kết luận cho cái chương quan trọng này về linh hồn, ông viết: "Trong quyển sách này, giải đáp tạm thời mà chúng tôi đã tìm ra, được diễn tả như sau: tư tưởng chính là kẻ tư duy".
Đức Phật đã thuyết minh những điều ấy, 2500 năm về trước, trong lúc Ngài châu du trong lưu vực Sông Hằng.
Phật giáo giảng dạy một loại tâm lý học không có linh hồn, cho rằng con người được cấu tạo do hai thanh phần: tinh thầnvật chất (Nàma và Rùpa). Hai thành phần này ở trong trạng thái một triều lưu thay đổi không ngừng nghỉ:
* Thành phần vật chất (Sắc - Rùpa) sự thể hiện của năng lực và các dạng năng lượng không ngừng biến đổitác động lẩn nhau. Sắc được qui định (chi phối) bởi 4 yếu tố:
1) Nghiệp (Kamma), tức là năng lực của những hành động trong quá khứ;
2) Tâm (Citta), tức là những phẩm chất và tác động của tinh thần;
3) Nhiệt năng (Utu), tức là sự biến đổi vật lý của yếu tố nhiệt lượng;
4) Chất dinh dưỡng (Ahara), là yếu tố dinh dưỡng của thức ăn.
* Thành phần tinh thần (Danh - Nàma) là phần quan trọng nhất của bộ máy con người, gồm có:
1) Thọ hay cảm giác (vedanà);
2) Tưởng hay tri giác (sannà);
3) Hành (Sankhàrà) là sự phối hợp của 50 tâm trạng, tạo thành những sinh hoạt tâm có tác ý;
4) Những trạng thái tinh thần này diễn ra trong ý thức trường, được gọi là thức (vinnàửa). Bốn loại hiện tượng tinh thần ấy, phối hợp với hiện tượng vật chất ở trên, tạo ra năm uẩn (Pancakkhandha).
Con người chính là vật cấu hợp phức tạp ấy.
Mỗi đơn vị tâm xuất hiện dưới 3 dạng thái: sinh (uppàda), trụ (thiti), và diệt (bhaởga). Khi một đơn vị tâm diệt, một đơn vị khác sanh lên. Đơn vị tâm sau chắc chắn không giống với đơn vị tâm trước - vì cấu tạo của nó đã khác - nhưng cũng không hẳn hoàn toàn khác biệt, bởi vì nó thể hiện sự liên tục của dòng nghiệp lực.
Không nên lầm lẫn nghĩ rằng tâm thức bị cắt ra từng mảnh ráp nối lại với nhau như một xe lửa hay một dây xích. Trái lại, nó trôi chảy một cách liên tục như một giòng sông vừa tiếp nhận những nhánh suối phụ thuộc của các giác quan, làm tăng trưởng liên tục giòng nước, đồng thời phân phối ra thế giới bên ngoài những "chất liệu tư tưởng" mà nó đã tích tụ được. Nó có sự sanh làm khởi điểm và chết làm cuối điểm. Sự chớp nhoáng của luồng tâm thức rất khó mà đo lường xác đáng được, cho dù chỉ phóng lượng. Các nhà chú giải dám tuyên bố là một chập tâm ngắn hơn một phần tỉ của sấm chớp.
Tóm lại, chúng ta có sự kế tiếp của nhiều trạng thái tâm thoáng qua, khác với sự chồng chất những trạng thái tâm này, như nhiều người vẫn tưởng. Một trạng thái tâm, khi đã qua đi, sẽ không trở lại và sẽ không bao giờ hoàn toàn giống với trạng thái tâm trước. những trạng thái tâm này thay đổi liên tục và không bao giờ giống nhau ở hai thời điểm kế tiếp. Nhưng đối với chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự nhận thức bị che án bởi màn vô minh, chúng ta tưởng rằng sự liên tục bề ngoài như là cái gì trường cữu trong cái tâm thức luôn luôn chuyển dịch này, và chúng ta suy diễn thành một linh hồn bất diệt, một Bản Ngã vừa chủ động và vừa thu nhận tất cả những hành động.
"Cái mà chúng ta gọi là 'Bản Ngã', giống như một vật sáng hình thành bởi nhiều đốm sáng liên tục tiếp nối một cách thật nhanh, đến nỗi mắt con người không có khả năng phân biệt thành từng đốm riêng biệt" (Dahlke). Chúng ta nhìn biển cả như một khối nước khổng lồ, nhưng khối nước ấy được cấu tạo bởi vô lượng giọt nước. Bãi biển được hợp thành bởi muôn vàn hạt cát, nhưng nó xuất hiện như một bãi mênh mông đồng nhất. Các đợt sóng dâng lên và vỗ tan vào bờ. Nhưng không có một đợt đơn lẻ nào sanh ra ở đầu ngọn và chết đi ở trên bờ. Trong phim ảnh hoạt họa, chúng ta thấy những màn họat động, nhưng nó là kết quả của nhiều hình ảnh bất động xếp lại với nhau.
Cũng như thế ấy, không có một linh hồn trường cữu nằm bên trong sự vật qui ước được gọi là "Bản Ngã", mà thực tế chỉ là sự kết hợp của Ngủ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Chúng ta không thể nói mùi hương của một cái hoa nằm trong cánh hoa, hoặc trong nhụy hoa, hay trong màu hoa, nó nằm trong toàn thể cái hoa. Tương tự như thế, một cá thể được qui định bởi sự phối hợp của năm thành phần nói trên. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu rõ rằng chữ "Bản Ngã" chỉ định cái diễn tiến hiện tượng tâm vật lý không ngừng sanh diệt ấy, thì không có cái gì trở ngại khi xử dụng danh từ này. Chính Đức Phật đôi khi cũng dùng chữ "Ngã" để chỉ định hợp thể các "Ngũ Uẩn".
Phật Giáo không hoàn toàn chối bỏ sự hiện hữu của một "Cá Thể", trong ý nghĩa thuần lý. Phật giáo muốn chứng minh cá thể này không có trong thực tế. Danh từ triết học Phật Giáo dùng để chỉ định một cá thể(santati), có nghĩa đen là: giòng, luồng, hoặc sự liên tục. Nó bao hàm vừa những yếu tố tinh thần, những yếu tố vật chất, vừa nghiệp lực của mỗi cá thể liên kết các yếu tố lại với nhau. Cái giòng liên tục này, hoặc sự liên tục của các hiện tượng tâm sinh lý này, bị chi phối bởi cái Nghiệp, không chỉ giới hạn duy nhất trong kiếp sống này; nó bắt nguồn từ một quá khứ vô thủy (sans commencement)tiếp tục trong một tương lai vô chung (nếu chưa được giải thoát); cái "giòng liên tục" này của Phật Giáo, các tôn giáo khác gọi là "bản ngã trường cữu" hay "linh hồn bất diệt".
Chính cái giáo lý Vô Ngã, Vô Linh Hồn (Anattà) là đặc thù chính yếu của Phật Giáo.
Làm sao sự tái sanh có thể xảy ra được nếu không có sự hiện hữu của linh hồn?
Đối với Phật Giáo, sanh là sự thể hiện, sự xuất hiện của năm thành phần (Ngũ Uẩn) tạo thành một "cá thể". Cũng giống như sự xuất hiện của trạng thái vật lý được chi phối bởi trạng thái vật lý trước đó, tạo điều kiện cho nó; thì sự xuất hiện của tiến trình tâm - vật lý của một cá thể - được điều kiện hóa bởi những nhân duyên xảy ra trước sự sanh. Tiến trình "hình thành" hiện tại là kết quả của một ước muốn "hình thành" trong kiếp quá khứ và ước muốn "hình thành" hiện tại sẽ tạo điều kiện cho một đời sống trong kiếp vị lai.
Cũng như tiến trình sống có thể xảy ra, không cần có một cái gì trường cữu chuyển di từ một chập tư tưởng này sang một chập tư tưởng khác, thì một loạt liên tiếp những tiến trình sống có thể xảy ra, không cần có một linh hồn chuyển sanh từ kiếp này sang kiếp khác.
Thí dụ: chúng ta có một lô hòn bi đặt liền nhau, nếu chúng ta tống một lực thật mạnh vào hòn bi đầu tiên bất động; nó cũng sẽ ở bất động, nhưng cái lực mà nó đã nhận được sẽ được truyền cho những hòn bi khác và hòn bi cuối cùng sẽ chuyển động. Không phải hòn bi đầu tiên chuyển di vào những hòn bi khác, nhưng cái sức đẩy đã xuyên thấutác động trên hòn bi cuối cùng.
Cũng như thế ấy, một chúng sanh, khi chết, chuyển giao nghiệp lực của nó cho một chúng sanh khác, và chúng sanh mới này bị chi phối bởi nghiệp của kẻ đi trước.
9. Có người nào tạo tác trong đời này, và một người khác phải gặt quả trong kiếp sống sau chăng?
Nói rằng "người nào gieo thì người đó gặt" là một điều cực đoan. Nói rằng "người này gieo mà người khác gặt" là một cực đoan khác.
Vượt khỏi hai cực đoan ấy, Đức Phật dạy giáo lý Trung Đạo, từ nhân đi tới quả; không phải một người, mà cũng không phải người khác (Nacasonaca Anno), giống như lời Đại Đức BUDDHAGOSA trong quyển "Thanh Tịnh Đạo". Sự sanh sản của loài bướm có thể làm thí dụ rõ rệt: nó sanh ra khởi đầu từ trong một cái trứng, rồi trở thành con sâu, sau lại thành con nhộng và cuối cùng, ngẫu nhiên, thành con bướm. Sự tiến triển của một chúng sanh, trong đời sống, cũng mường tượng như thế ấy. Con bướm không phải là con nhộng, mà nó cũng không phải hoàn toàn là con sâu. Kiếp sanh của người hay của bướm là một sự diễn tiến hay sự liên tục của một đời sống.
10. Nếu khônglinh hồn, như vậy có một trách nhiệm nào về tinh thần đạo đức chăng?
Có, bởi đây là sự liên tiếp trong một cơ cấu diễn tiến, có thể xem như một cá thể đồng nhất.
Ví dụ như một đứa trẻ trở nên người trưởng thành. Người này không phải tuyệt đối là đứa trẻ mà ta muốn nói, trong khi tế bào của anh đã hoàn toàn thay đổi, mà cũng không thể nói là người khác, bởi chỉ có một triều lưu sinh tồn duy nhất. Song le, cá nhân là gì nếu không phải chính người ấy, thì tất nhiên nó phải chịu trách nhiệm đối vớí hành vi của nó trong thời kỳ ấu xuân. Dầu nguồn sinh lực có tắt nơi đây và sanh lại nơi kia, nó cũng vẫn liên tiếp tồn tại trong đời; cái nguyên tố chủ yếu chính là cái nối liên tục ấy.
Ví như người nọ trước kia tên A; bây giờ tái sanh lại tên B. Tên A chết thì xác thân của nó - là biểu hiện bề ngoài của nghiệp lực - đã mất rồi. Tên B sanh với xác thân mới khác. Dầu có những sự thay đổi về thể xác bên ngoài, nguồn tâm thức đi thọ sanh (Citta Santati) vô hình, vẫn liên tiếp chảy hoài, không gián đoạn bởi cái chết, và đem theo với nó tất cả những ấn tượng của Ngũ Quan đã cung cấp cho nó. Thế ấy, muốn nói cho đúng lý, nên xét coi tên B có phải chịu hoặc không chịu trách nhiệm về hành vi của tên A chăng? Có người biện hộ rằng không ai nhớ được dĩ vãng của mình vì do có cái chết xen vào.
Hỏi vậy sự liên tục (đồng nhất), hoặc là trí nhớ, có cần thiết để bắt buộc phải chịu trách nhiệm về tinh thần không?
Nếu người kia gây ra một trọng tội, và thình lình người ấy mất trí nhớ không còn nhớ tội ác của nó, hỏi vậy nó có phải gánh chịu trách nhiệm của nó không? Cái quên có ân xá được tội lỗi của nó không?
Có kẻ nói: "Hành phạt nó làm chi, bởi nó không nhận biết rằng nó đang đền tội !". Thế thì đâu là công bình trong trường hợp này?
Lẽ dĩ nhiên không có công bình, nếu chúng ta bị khép dưới quyền thống trị của một vị trời độc tài thưởng phạt. Trái lại, Đức Phật chẳng hề nói đến sự đền tội.
Theo Phật Giáo, thế gian không phải thiết định như vậy. Người Phật Tử tin nơi luật công bình hợp lý của cái nghiệp, ngấm dẫn tự nhiên từ nhân ra quả, không có chi gọi là thưởng hay phạt.
Đại Đức Silacara có thuyết rằng: "Nếu có người kia mộng du (hành động trong giấc ngủ) ra khỏi giường, đi dựa vào lang cang rồi té xuống đuờng, có thể gãy tay, gãy chân hoặc bị thương nặng hơn nữa. Tai nạn này xảy ra chẳng phải vì một sự đền tội của người đi trong giấc ngủ, mà chỉ là kết quả của người đi trong giấc ngủ thôi. Lý do không nhớ đã có đi trên lang cang, không sửa đổi được kết quả của sự té xuống đất.
Bởi thế, người Phật Tử cần phải chuẩn bị để tránh, đừng đi ra ngoài hành lang hoặc nơi nào nguy hiểm khác, dầu ngủ hay thức. Có vậy mới khỏi gây thương tích cho mình và cho kẻ khác.
Lý do của người không nhớ đến dĩ vãng của mình không phải là một trở ngại cho sự hiểu biết sáng suốt của chúng ta về sự tiến triển của nghiệp lực.
Nhờ nhận thức được rằng không thể trốn tránh kết quả của cái Nghiệp trong triều lưu sanh tử luân hồi, nên người Phật Tử biết trau giồi ít nhiều tâm tánh của họ.
11. Có thể nào một người kia sẽ tái sanh lại làm thú vật không?
Mọi ngườithể không thừa nhận câu trả lời của Phật Giáo. Nhưng chẳng ai bị ép buộc phải mù quáng tin theo.
Phật Giáo quả quyết có sự thoái hóa của nghiệp.
Hình thức vật chất làm trung gian cho nguồn sinh lực liên tiếp tiến triển, chỉ là những biểu hiện tạm thời của Nghiệp lực mà ai ai cũng thấy được. Xác thân hiện tại chẳng phải trực tiếp do nơi thể xác vật chất quá khứ mà sanh ra, nhưng chắc chắnliên quan đến một nguồn sinh lực của cái Nghiệp.
Cũng như năng lực điện khí có thể phát hiện liên tiếp dưới hình thức ánh sáng, sức nóng hoặc vận chuyển; hình thức này không cần phải phát sanh do hình thức kia. Năng lực của Nghiệp, cũng như thế ấy, có thể biểu hiện dưới hình thức của một vị Trời, một con người, một thú vật v.v; hình thức này không có liên quan với hình thức khác về mặt vật chất. Nghiệp của mọi người tạo ra hình thể vật chất, tùy theo hành vi khôn khéo, cùng không khôn khéo, đó thôi. Rồi từ đó, nó tùy thuộc hoàn toàn nơi sự tiến hoá theo trình độ hiểu biết của mỗi người về thực tế của sự vật.
Thay vì nói người kia trở thành con thú, hay trái lại thú kia trở thành người, đúng hơn là nói rằng nghiệp lực thể hiện dưới hình thức một con người hay dưới hình thức một con thú.
Thuở nọ, có hai thầy đạo sĩ tên PunnaSeniya, một thầy thì tu khổ hạnh theo lối lọaì bò, thầy kia tu khổ hạnh như chó, đến hỏi Đức Phật về kiếp vị lai của họ, Đức Phật trả lời: "Trong đời này, một gã kia thực hành trọn vẹn không thối chuyển những thói quen, những tâm trạng, những tư cách của chó. Gã ấy đã sống theo thói thường của chó, sau khi chết nó sẽ tái sanh lại trong loài chó".
Đức Phật cũng giải thích như trên, rằng kẻ nào khổ hạnh theo bò, cũng sẽ tái sanh trong loài bò.
Câu chuyện tình cờ này giải rõ ràng cách nào một con người có thể sanh lại làm thú, y theo luật thân thuộc.
Theo Phật Giáo, Nghiệp tiến hoá lên, cùng Nghiệp thoái hóa xuống, đều có thể có cả.
Đây là nội dung của giáo lý về cái Nghiệp và sự Tái Sanh.
-Hết-
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant