Điều Kiện Tiên Quyết Của Người Xuất Gia

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 7699)
Điều Kiện Tiên Quyết Của Người Xuất Gia

ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
Thích Thông Huệ


nguoixuatgiaMột người xuất gia chân chính, trước tiên chúng ta cần hiểu rõ sự quan trọng của một cuộc sống có kỷ cương, phép tắc, giới luật. Nếu không có kỷ luật trong đời sống tu hành, chúng ta khó khắc phục được dục vọng phiền não. Bởi vì, vọng tưởng ý dục như con trâu điên, có thể dụ dỗ, lôi kéo ta vào đường ma lối quỷ.

Nhiều người muốn thực hiện sự chuyển hóa bản thân, nhưng tập khí nhiều đời cứ đưa đẩy họ vào con đường luân lạc, vì không khéo tổ chức một cuộc sống khuôn khổ, nề nếp.Vì thế, lúc sắp nhập niết bàn, Đức Phật đã dạy các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy. Trong tranh chăn trâu của nhà Thiền, giới luật được tượng trưng bằng sợi dây buộc mũi.

Một số người hiểu Thiền một cách sai lạc, cho rằng lời dạy “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”, hoặc “đói ăn mệt ngủ”của các thiền sư có nghĩa là Thiền chủ trương tự do thoải mái, không cần theo phép tắc lễ nghi. Thật ra, tự do không phải là buông lung phóng dật, muốn làm gì thì làm. Tự do không thể tách rời kỷ cương, đạo lýtrong đời sống thường nhật hay trong nhà đạo. Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Nếu không giữ gìn giới luật, dù đạt được thiền định, cũng rơi vào lưới ma”.Đối với các vị thiền sư, do đã nhận ra và hằng sống với Phật tánh của chính mình, nên cái hồn nhiên, tùy duyên ấy phát xuất từ tự tánh và biểu hiện ra hành động. Các ngài sống một cách tự do tự tại, ngược xuôi, thuận nghịch gì cũng đều hợp đạo lý. Còn chúng ta, khi chưa hoàn toàn sống được với bản tâm thanh tịnh thì không bao giờ quên những giới luật phải gìn giữ, không bao giờ được đồng hóa sự phóng khoáng tự tại của những bậc đã chứng ngộ với sự phóng túng tự do của kẻ phàm phu tục tử.

Đạo Phật là một tôn giáo không nặng về thần quyền, mà trả lại cho con người những giá trị vốn có; con người là chủ nhân vũ trụ và của chính mình. Vì vậy, đạo Phật là đạo tự lực, đặt nền tảng trên đạo lý nhân quả và có tinh thần nhân bản rất cao. Thông thường, gặp chuyện đau khổ hay bất như ý, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác mà quên nhìn lại xem mình có lỗi hay không. Phật dạy, từ vô lượng kiếp, do thân miệng ý của chúng ta đã tạo biết bao nhiêu nghiệp thiện ác, rồi theo nghiệp thọ sanh, lẩn quẩn mãi trong vòng sanh tử. Những điều này gọi là may mắn hay rủi ro, những người gọi là ân hay oán đến với mình, đều chiêu cảm từ nhân mình đã gieo từ thuở trước. Có nhân, cộng thêm những duyên hỗ trợ, nhất định phải có quả. Lý nhân quả là một chân lý muôn đời, nên người hiểu đạo luôn có tinh thần trách nhiệmtự lực, không hướng ngoại tìm cầu, cũng không bao giờ đổ lỗi cho ai.

Lúc Đức Phật gần nhập niết bàn, ngài A-nan hỏi Phật bốn vấn đề như sau:

 1. Nương vào pháp nào để trụ?

 - Nương vào Tứ Niệm Xứ.

 2. Sau khi Phật diệt độ, lấy ai làm Thầy?

 - Lấy giới luật làm Thầy.

 3. Khởi đầu mỗi kinh ghi chữ gì?

 - Như thị ngã văn.

 4. Tỳ kheo ác tánh trị bằng cách nào?

 - Trị bằng cách mặc tẩn.

Ở đây chúng ta chỉ bàn vấn đề giới luật. Quả thực giới luật là bậc Thầy cao cả của hàng tứ chúng con Phật. Dù chúng ta đang tu theo pháp môn nào, cũng phải theo lộ trình Tam vô lậu học là giới - định - tuệ. Giữ giới là dừng mọi việc ác, làm mọi hạnh lành, tạo dựng cho mình một đời sống căn bản đạo đức. Người xuất gia muốn xây dựng lầu cao trí tuệ, phải xây đắp nền móng giới luật vững vàng.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, chư Tăng phải thực hiện chế độ an cư, nghĩa là yên ở nơi một trú xứ thu nhiếp các căn, nỗ lực tu tập giới - định - tuệ. Nguyên nhân đầu tiên Đức Phật đặt ra chế độ này, là vì trong ba tháng hạ, ở Ấn Độ mưa nhiều, nước ngập cả lối đi, sau đó côn trùng sinh sôi nảy nở, nên trở ngại cho việc đi hoằng pháp và vô tình giẫm chết côn trùng. Sau ba tháng cấm túc, Phật nhận thấy nhiều vị tỳ kheo đắc Thánh quả, nhờ ít đi lại, tránh bớt các duyên và quyết liệt tu hành. Do kết quả đó nên sau này, chế độ cấm túc an cư trong ba tháng hạ được duy trì mãi trong Tăng chúng.

An cư phải đi đôi với kiết giới. Sinh hoạt của chư Tăng trong thời gian này khác với ngày thường. Những ngày bình thường, do duyên sự bề bộn, các vị có thể du phương làm phật sự, kỷ luật trong Tăng đoàn có khi lơi lỏng. Nhưng trong ba tháng hạ, mọi việc đều thu xếp gọn lại, chư Tăng chỉ đi lại giới hạn trong khuôn viên của tự viện; chỉ có những vị có duyên sự đặc biệt, phải xin phóng giới mới được ra ngoài. Mới nhìn, chư Tăng có vẻ rãnh rỗi, không bận tâm về sinh kế vì nhờ phật tử hỗ trợ cúng dường; nhưng thật ra nội tâm của các vị quả là một trường chiến đấu! Một mặt phải khép mình vào một kỷ luật hết sức nghiêm khắc, mặt khác phải chiến đấu không ngơi nghỉ với bao tập khí phiền não. Nhờ vậy, sau thời gian kiết hạ, nếu vị nào giữ giới tinh nghiêm, nỗ lực tu học, có sự tỉnh lực thì sẽ có tiến bộ đáng kể. Nơi nào tổ chức tu hành nghiêm túc sẽ có thể sản sinh những người xuất cách, còn nếu tổ chức lơi lỏng sẽ khó đào tạo được Tăng tài. Như vậy, người xuất gia nào nếu sắp xếp được công việc, tránh bớt các duyên, hàng năm có thể tổ chức cho mình một thời gian nhất định nào đó để tĩnh tu.

Như đã nêu ở trên, việc tu hành không có nghĩa chỉ chú trọng trong ba tháng hạ, bởi vì đó là một tiến trình liên tục và trường viễn. Tuy nhiên, vào những ngày bình thường, do làm nhiều phật sự phải tiếp duyên xúc cảnh, nên sự thúc liễm thân tâm không mạnh mẽ bằng thời gian ở yên trong một môi trường thanh tịnh, cùng đại chúng tập trung. Đặc biệt với các vị tăng ni trẻ, trường hạ còn là nơi thuận lợi để được gần gũi, học hỏi về giới hạnh và sở tu của các vị tôn túc giáo phẩm, những bậc đạo cao đức trọng đã có quá trình tu chứng.

Trở lại vấn đề giới luật, ngoài việc áp dụng cho từng cá nhân người tu, còn có những nguyên tắc sống chung trong tập thể Tăng đoàn. Tinh thần lục hòa cộng trụđộng lực thúc đẩy Tăng đoàn phát triển và hoàn thiện, trong đó có sự bình đẳngtrọng tâm: bình đẳng về vật chất (thân hòa đồng trụ, lợi hòa đồng quân), bình đẳng trong luật chế (giới hòa đồng tu), hòa hợp trong tư tưởnglời nói (kiến hòa đồng giải, ý hòa đồng duyệt, khẩu hòa vô tránh). Nhờ sống theo tinh thần này nên đại chúng có sự hòa hợp từ hình thức đến nội dung, như lời Phật dạy: “Để Tăng già được ổn thuận, để kềm giữ các tỳ kheo khó kềm giữ, để các thiện tỳ kheo được ổn cố tự thân”. Thanh tịnh thân tâm từng cá thểhòa hợp trong đời sống tập thể là ý nghĩa sâu xa và cao quý của hai chữ Tăng già (Sangha).

Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Giới là cội gốc của Bồ đề, là cửa ngõ của Niết bàn, là chiếc thuyền đưa chúng sanh qua biển sinh tử”. Giới luật nhà Phật không phải là những giáo điều, những quy định pháp lý cứng nhắc, mà là những nguyên tắc sinh hoạt tu hành có tính tự nguyện. Mỗi người có quyền giữ gìn tôn trọng hay không, và tự mình được hưởng kết quả tốt hay gánh chịu hậu quả xấu tùy hành động của mình. Tịnh hóa đời sống tu hành bằng con đường giới luật không những có tầm quan trọng đặc biệt đối với cộng đồng tăng lữcá nhân từng tu sĩ xuất gia, mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường xung quanhtoàn thể xã hội. Bởi vì mỗi người đều có quan hệ hữu cơ với mọi người mọi vật, nên người tu sĩ với ba nghiệp thanh tịnh sẽ có sức cảm hóa lớn đối với cộng đồng, không những bằng khẩu giáo mà còn bằng thân giáo. Do vậy, Tăng đoàn hòa hợp thanh tịnh sẽ giúp tịnh hóa nhân sinh, từ đó góp phần an định xã hội.

Tích cực gìn giữ cấm giới là nội dung đầu tiên và căn bản, luôn được đề cao và nhắc nhở trong suốt cuộc đời hành đạo của người xuất gia. Từ bước căn bản đầu tiên ấy, người xuất gia mới xứng đáng là Trưởng tử Như Lai, là bậc pháp khí trong hàng Tăng bảo, đem Phật pháp xây dựng thế gian, làm cho Phật pháp xương minh, tất cả chúng sanh đều nhuần ơn pháp vũ./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant