Đức Phật Là Bậc Giác Ngộ

17 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 7576)
Đức Phật Là Bậc Giác Ngộ
phatthanhdao-01

ĐỨC PHẬT LÀ BẬC GIÁC NGỘ

Thích Thông Huệ

duc_phat_thich_ca_thanh_dao_2Đức Phật giác ngộ tức đã đạt Niết bàn. Niết bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát khỏi các kiết sử tùy miên, sự đoạn diệt hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si, trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng Sinh-lão-bệnh-tử chi phối nữa. Niết bàncứu cánh của người tu Phật.

Ngược dòng thời gian cách đây trên 2500 năm, vào một ngày trăng tròn, có một bậc vĩ nhân xuất hiện ở đời. Ngài sinh vào cung vua Tịnh Phạn năm 563 trước Tây Lịch. Đó là thái tử Sĩ Đạt Ta, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một con người sống trong nhung lụa cao sang, hạnh phúc gia đình đầm ấm và có quyền uy tột đỉnh nhưng tự tại với mọi cám dỗ của ngũ dục lục trần. Ngài đã tự nguyện từ bỏ tất cả, vượt thành xuất gia sống cuộc đời Sa môn khổ hạnh nơi núi rừng, trải qua biết bao gian khổ, dãi nắng dầm sương, vượt núi băng rừng, hết học với các bậc ẩn tu thì nỗ lực thực hành công phu tu tập. Ngài đã tuyên thệ một lời sắt đá:“Ta ngồi nơi đây, nhất tâm thiền định, dù thịt nát xương tan, nếu chưa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ta quyết không rời chỗ này.” Ngài trải qua 49 ngày đêm hành trì dưới cội cây Tất Bát La bên bờ sông Ni Liên Thuyền, cuối cùng thành tựu Đạo quả Vô thượng.

Ngày đản sinh và Đêm thành đạo là hai dấu ấn quan trọng bậc nhất của cuộc đời Đức Phật và là hai ngày trọng đại nhất đối với những người con Phật chúng ta. Sau đó, trong suốt 49 năm hoằng dương chánh pháp, Ngài đã triển khai vi diệâu pháp để cứu độ chúng sinh, rồi mới đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đờithể nhập Niết bàn tự tại.

Đức Phật chính là người tự chủ trong thị hiện Đản sinh và thị hiện Niết bàn. Ngài nhập diệt ở rừng Ta la Song thọ. Năm ấy Ngài 80 tuổi. Trước khi ra đi, Ngài đã để lại lời dạy tối hậu, sau này kết tập thành Kinh Di Giáo, đó là lời dạy vô cùng quý báu cho tất cả hàng đệ tử xuất gia. Sau khi Đức Phật Niết bàn thì hỏa thiêu, toàn thân xá lợi chia thành tám phần cho tám nơi theo sự sắp đặt của Ngài. Ngài là bậc đản sinh vi diệu, hoằng pháp vi diệunhập Niết bàn vi diệu. Ngài không phải là bề trên, không phải là đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai, mà Ngài là Vô thượng Y vương trị tâm bệnh cho chúng sinh. Ngài là bậc Đạo sư, vị Thầy dẫn đường chỉ dạy cho chúng sinh phương pháp thoát ly sinh tử và đưa chúng sinh qua khỏi biển khổ trầm luân .

Đức Phật giác ngộ tức đã đạt Niết bàn. Niết bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát khỏi các kiết sử tùy miên, sự đoạn diệt hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si, trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng Sinh-lão-bệnh-tử chi phối nữa. Niết bàncứu cánh của người tu Phật.

Nhà Phật định nghĩa: chúng sanh, giác ngộPhật. Có thể ví như lưng bàn tay và lòng bàn tay . Mê và giác không phải là hai thể, không phải hai đường, hai lối mà là cùng một thể, một lối. Chẳng hạn, người khi nằm ngủ thấy cảnh mộng và người khi hết mộng vẫn là một người , người khi mê là đang ở trong trường đại mộng và khi hết mộng tức là giác, là tỉnh.

Hòa thượng Trúc Lâm đã nói trong bài thơ Mộng:

“Gá thân mộng,

Dạo cảnh mộng.

Mộng tan rồi,

Cười vỡ mộng.

Ghi lời mộng,

Nhắn khách mộng.

Biết được mộng,

Tỉnh cơn mộng.”

Chính vì vậy, mê lầmgiác ngộ không phải là hai lối, nhưng với thức tâm phân biệt của chúng sanh cần rạch ròi mới dễ hiểu. Hiểu được rồi, chúng ta sẽ thấy khi trở về con người chân thật của mình không phải hai thể, hầu như không có khoảng cách. Không có khoảng cách ở đây cũng như sóng và nước. Sóng đi tìm nước là một điều bi đát, sai lầm. Giống như nhà Thiền nói: “Một người ở dưới sông, nước sông trong vắt nhưng người ấy lại thấy khát nước”. Vì thế nhà Phật mới nói: “Người vác Phật đi cầu Phật.”

Nếu con người gột hết tham sân si, phiền não, tật đố, vô minh thì sẽ thành Phật. Chúng sanh và các Bậc Giác ngộ chỉ là một thể. Phật tánh vốn có sẵn nơi mỗi chúng ta, nhưng vì vô minh tạo nghiệp, thọ thân nên cứ cho thân giả tạm là mình mà quên đi cái chân thật . Người nào thường quên cái giả mới sống gần được cái thật, cho nên nhà Thiền mới hướng dẫn chúng ta tu để nhận ra cái chân thật mà không lầm lẫn với cái giả tạm kia.

Đức Phật đã giác ngộ, đã hoằng pháp 49 năm, đã trao truyền lại cái mà Ngài đã ngộ, đã thấy, đã chứng nhập để chúng sanh được nghe, được biết. Chính vì thế, Đức Phật là Bậc Giác ngộ. Ngài đã khai sinh ra đạo Phật. Đạo Phật là đạo giác ngộ. Còn tứ chúng đệ tử Phật, hay thất chúng đệ tử Phật đều là con của Phật, là con của Bậc Giác ngộ. Nếu chúng ta mê thì không xứng đáng là đệ tử Phật, vì sự nghiệp của người tu là giác ngộ, nên người đệ tử của Phật cần phải giác không được mê. Kinh điển A-hàm, Nikaya, Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa đã triển khai rất nhiều khía cạnh để mở ra cho chúng ta một chân trời thênh thang của sự giác ngộ. Chúng ta cần giác ngộ để sống đời an vui hạnh phúc, vì đã giác ngộ thì sẽ không còn sống trong bóng đêm u tối. Nếu bóng đêm ngự trị thì chúng ta không có ánh sáng, nhưng dù cho chúng ta sống trong bóng tối mà nhận được đạo lý thậm thâm thì sẽ mở mang được sự giác ngộmê lầm sẽ lùi dần ra khỏi tâm trí chúng ta.

 Chúng ta học được đạo lý giác ngộ thì phải gia tâm chiêm nghiệm, phải khai phát ra ánh quang minh trong từng thời khắc khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, tiếp xúc để sống vui và sống khỏe. Người giác ngộ lúc nào cũng tỉnh cũng giác. Người tu không bao giờ tạo nghiệp ác, nghiệp xấu vì họ luôn sống trong nội tâm an hòa, vui cho bản thân và vui cho mọi người.

Kinh Kim Cang có nói đến “Lý một hợp tướng”. Đây là một bộ kinh rất quan trọng của Phật giáo Đại ThừaĐức Phật đã triển khai. Vua Trần Thái Tông đang khi đọc kinh liền đại ngộ. Đặc biệt Lục Tổ Huệ Năng khi nghe kinh đến câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” liền thoát nhiên đại ngộ.

 

Thân của chúng ta được kết hợp bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc được tạo thành từ đất, nước, gió, lửa. Nếu rời yếu tố vật chấttinh thần thì không thể có thân tâm chúng ta. Tướng trạng mà chúng ta nhìn thấy được do hòa hợphiện ra một pháp, một hiện tượngDuy thức học gọi là: “Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải.” Mỗi pháp đều có khuôn khổ, nhìn vào tướng trạng đều có thể biết được pháp đó. Nếu thông hội được pháp thì sẽ biết pháp được hòa hợp bởi nhân và duyên, bằng những yếu tố khác nhau. Mỗi pháp tồn tại trong sự tương thuộc lẫn nhau, kết hợp lẫn nhau để hình thành nên một hợp tướng. Hòa hợp thì có mặt, không còn hòa hợp thì tan rã. Đó là lý tương sinh và tương khắc. Nếu như thấy được thân này là một hợp tướng, là vô ngã, không có chủ thể thì nhìn tất cả các pháp cũng chỉ là một hợp tướng. Như vậy, khi thấy được tất cả đều do duyên hợp thì đều không thật có, không có chủ thể. Nếu chúng ta đem ánh bình minh giác ngộ đó mà soi rọi vào tất cả mọi ngõ ngách của cuộc đời thì sẽ thấy được tất cả đều là giả, mà giả thì đâu thực có. Tam đoạn luận của Bát nhã đã triển khai điều này. Ở trong thế giới sinh diệt hữu vi, lý một hợp tướng không bao giờ sai biệt trong khoảng thời giankhông gian này. Những người có sức tu thì không rộn ràng. Họ thâm trầm, hướng nội từng thời khắc để chơn trí tỏ rõ. Chúng ta cần có tuệ giác Bát nhã để sống an vui . Đức Phật khi đã giác ngộ rồi thì Ngài đạt được hạnh phúc nhất trần gian. Vua Trần Nhân Tông bỏ ngôi lên núi Yên Tử tu hành, giác ngộ thấy được lẽ thật không mê lầm, không còn bị phiền não, tham sân si, vô minh chi phối nên cũng vô cùng hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây là dừng lại, nhìn sâu thấy rõ, không còn bị mê lầm.

Lý một hợp tướng không thuộc về có vì không có thật thể, không thuộc về không vì hiện giả có. Đó là ngôn ngữ của Bát nhã. Ở châu Á có nền đạo lý gọi là đạo học, có đạo học thậm thâm thì cần học hỏi mới cứu vãn sự nguy hiểm của tình hình thế giới hiện đại đang có nguy cơ bị hủy diệt do hiệu ứng nhà kính, tan băng Bắc cực, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí, ô nhiễm mặt đất, ô nhiễm nguồn nước. Khoa học đã tạo nên một cuộc sống đầy đủsung túc cho nhân loại, nhưng đồng thời con người cũng bị đe dọa bởi bạo lực và chiến tranh, vì khoa học chế tạo ra bom đạn, vũ khí hạt nhân làm ảnh hưởng đến đời sống con người. Bão lụt, động đất, sóng thần mang tính vĩ mô. Tất cả xảy ra đều là do ảnh hưởng của nền khoa học tiên tiến. Nếu chúng sanh hạn chế được tham sân si thì sẽ sống trong tinh thần tương thân, tương ái và con người ngày càng minh triết hơn. Nếu còn nuôi dưỡng tham sân si thì đó là cái họa của chiến tranh. Các nhà khoa học cần được đạo đức tâm linh soi đường. Đạo Phật là đạo của trí tuệtừ bi . Chính vì vậyLiên Hiệp Quốc đã chọn đạo Phật là đạo đem đến hòa bình, an lạc cho cả thế giới .

Các pháp giả hợp có nhiều phương diện diễn đạttriển khai gọi là duyên khởi tánh không mà trước đó là hữu vi duyên khởi. Hữu vi là có sanh, có diệt, có giả hợp. Các Ngài sống vượt ra khỏi trạng thái sinh, diệt, ly, hợp và vượt lên thói thường, sống trong thế giới siêu nhiên, gọi đó là Niết bàn. Thân này có mặt bằng những yếu tố không phải thân. Thân không có ngã, không có chủ thể, thân là vô thể. Điều này rất khoa học, vì Đức Phật chưa bao giờ ru ngủ tín đồ.

Câu chuyện Ngài Phật ẤnTô Đông Pha đã cho chúng ta thấy đây là đôi bạn thân nhiều đời , nhiều kiếp. Phật Ấn tu hành, làm sư sãi ở chùa sống bằng trí tuệ Bát nhã. Tô Đông Pha là nhà thơ ở đời Đường, rất thông minh, hiểu Phật pháp nhưng không có chỗ ngộ vì còn đam mê trần gian huyễn mộng, sống vương giả, năm thê bảy thiếp. Một bữa nọ, Phật Ấn theo hỗ trợ cho Tô Đông Pha tọa thiền. Sau khi xả thiền, Phật Ấn đã giúp Tô Đông Pha nhận ra chân lý sáng ngời: “Tâm tịnh thì tất cả các pháp đều thanh tịnh, tâm như các pháp như, tâm bình thế giới bình.” Tô Đông Pha sau khi được Phật Ấn nâng đỡ đạt đến trình độ hiểu Thiền thâm hậu , ông đã lưu xuất một bài thơ nổi tiếng:

“Lô-sơn yên tỏa , Chiết-giang triều

Vị đáo sanh bình hận bất tiêu

Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự

Lô-sơn yên tỏa, Chiết-giang triều.”

Nghĩa:

Mù tỏa Lô-sơn, sóng Chiết-giang

Khi chưa đến được hận muôn ngàn

Đến rồi về lại không gì khác

Mù tỏa Lô-sơn, sóng Chiết-giang.

Toàn bộ nhân sinh vũ trụ đều là duyên khởi tánh không. Con người gồm có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tất cả đều là giả hợp duyên khởi , tức là duyên hợp thì có sáu đối tượng thu nạp để tiếp thu vào bên trong. Nghĩa là mắt phải tiếp xúc với trần cảnh gọi là sắc, tai phải tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với xúc và ý thì duyên với pháp trần. Bên trong có sáu căn, bên ngoài có sáu trần nên gọi là thập nhị xứ. Thập nhị xứ bao gồm: bên trong có sáu nội xứ, bên ngoài có sáu ngoại xứ, nhưng đặc biệt ở chỗ là: mắt không bao giờ nghe được tiếng, tai không bao giờ thấy được sắc ... Mỗi căn đều có trần tương ứng để tiếp thuphân biệt. Mắt thấy sắc thì sanh tâm phân biệt gọi là nhãn thức. Tai nghe được tiếng liền sanh tâm phân biệt gọi là nhĩ thức. Mũi ngửi được mùi bèn sanh tâm phân biệt gọi là tỷ thức. Lưỡi nếm được mùi vị nên sanh tâm phân biệt gọi là thiệt thức. Thân tiếp xúc với xúc trần gọi là thân thức. Ý căn tiếp xúc với pháp trần phát sinh ý thức.

Như vậy sáu căn, sáu trần và sáu thức gộp lại gọi là Mười tám giới phân biệt, nên mới có thân, tâm và cảnh giới này. Sáu thức tâm phân biệt và sáu căn bên trong là nhân sinh quan. Còn sáu trần bên ngoài là vũ trụ quan. Vũ trụ quan là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn, sáu trần tác động giao thoa rồi mới sinh ra sáu thức, nhưng nếu tách rời sáu thức ra khỏi sáu căn và sáu trần thì sáu thức cũng không hiện hữu được. Căn, trần và thức đều là duyên khởi nên là tánh không. Tánh không bao trùm tất cả vũ trụ vạn loại, nên nhà Phật mới suy tiến lý như huyễn như mộng của các pháp.

Hòa thượng Trúc Lâm đã từng nói đến tri vọng: “ Sáu căn là vọng, sáu trần là vọng, sáu thức phân biệt là vọng. Nếu con người buông xả các chấp hư vọng thì mới sống được với lẽ chân thường, nên nói cuộc sống này là huyễn mộng và hư vọng như giấc chiêm bao.” Kinh Kim Cang nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai ” nghĩa là nếu thấy được tất cả tướng trạng đều phi tướng thì sẽ thấy được Như Lai. Do chúng ta chấp thật nên mới kết tập thành chủng nghiệp, đam mê rồi tạo nghiệp triền miên khổ ải. Các Ngài sống bằng tâm thinh lặng, chân chất tự cõi lòng nên nhìn sâu và thấy rõ bằng trí tuệ Bát nhã. Còn chúng ta sống bằng tâm phân biệt nên tùy theo cách nhìn mà mỗi người trở thành phàm phu hay thánh nhân.

 

Thân con người có sinh, già, bệnh và chết. Các pháp giữa thế gian có sinh, trụ, dị, diệt. Một chu kỳ của vũ trụ có thành, trụ, hoại, không. Nếu con người giữ được tâm bình tĩnh thì cận tử nghiệp sẽ nhẹ nhàng và có sức tự tại. Thiền sư Duy Tín đời Tống nói rằng: “Sãi tôi khi mới tu thì thấy núi là núi, sông là sông; nhưng khi sãi tôi tu một thời gian, có được công phu thì thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông; sau ba mươi năm tu hành sãi tôi giác ngộ, hoàn toàn tự tại thì lại thấy núi vẫn là núi và sông vẫn là sông, y nhiên như thị.” Pháp không thật có nên gọi là diệu hữu, Pháp không thật không nên gọi là chơn không. Không mà chơn, hữu mà diệu. Có nhưng rất vi diệu vì không phải ở trạng thái phàm phu để nhìn nữa nên liền chuyển Ta bà thành Tịnh Độ. Khi ánh giác bùng lên thì khắp cả thế gian ngập tràn ánh giác; rồi lúc ánh giác tắt lịm, vô minh nghiệp chướng ùa đến thì cõi ấy là Ta bà khổ đau. Tịnh Độ hay Ta bà nằm trong tâm của chúng ta.

Rõ ràng tất cả các pháp đang hiện hữu nhưng hiện hữu một cách ước lệ, tồn tại trong sự chuyển động vô thường, tồn tại trong sự tương thuộc liên hệ chằng chịt những yếu tố nhân duyên. Các pháp đang tồn tại trong chuyển động và giả hợp nên các pháp không đứng yên một cách cố định và không tự độc lập hình thành mà phải vay mượn. Chính vì thế mà nói các pháp vì vô thường giả hợp mà có mặt một cách ước lệ chứ không phải thực có. Nếu hiểu được như thế thì chúng ta sẽ thấy các pháp đều phi và không nên chấp.

“Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Như là nơi không bị phân tâm, Lai là nhìn, thấy và nghe nhưng không mất đi trạng thái bất biến đó. Đức Phật từ Như mà đến cõi này. Ngài đạt đến bất biếntùy duyên cứu độ chúng sanh trong 49 năm, và 80 năm hiện hữu trên cuộc đời này là một điều vi diệu. Ngài như một đóa hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ nước đục, tỏa hương sắc dâng hiến cho đời. Hoa sen tượng trưng cho tánh vô nhiễm, ở trong trần mà Ngài không nhiễm trần, ở thế gian mà Ngài xuất thế gian.

 Đức Phật sống tự tạivô nhiễm giữa cuộc đời. Phật là Bậc Giác ngộ, Pháp là đuốc soi đường, Tăng là người đưa đường chỉ lối. Phật đã nhập Niết bàn, Pháp còn đó và nhờ Tăng hoằng dương. Phật tử đến chùa,“Tiên bái trụ trì, hậu bái Thích Ca” vì chính nhờ quý Thầy mà Phật tử mới biết đến giá trị của Phật và Pháp.

Đức Phật đã đạt được Niết bàn tự tại, thế nào là Niết bàn?

Niết bàn là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Niết bàndập tắt tham, dập tắt sân, dập tắt si. Dịch ra là vô vi, tịch diệt, diệt độ. Nếu nói theo nhà Thiền thì Niết bàn là tâm của chúng ta. Niết bàn là giác, là bản tâm thanh tịnh xưa nay, là chơn tâm, Phật tánh của chúng ta. Hay nói cách khác, Niết bànđương thể của tâm vô nhiễm. Trong Phật giáo, Niết bàn bao gồm: Hữu dư Niết bànVô dư Niết bàn. Nhà Phật phân loại Hữu dư Niết bànVô dư Niết bàn như sau:

Cách phân loại thứ nhất :

 Hữu dư Niết bàn là gì? Người tu hành đạt được trạng thái không sinh tử, vượt qua sinh tử đến bến bờ an vui giải thoát hoàn toàn, nhưng nhục thân này còn ở lại trên thế gian. Đó là Hữu dư Niết bàn. Các vị A la hán sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn sinh tử nữa, nhưng phần nhục thể còn tồn tại thì đó là dư tàn của nghiệp.

Vô dư Niết bàn là gì? Người tu hành đạt được trạng thái vô nhiễm rồi xả bỏ báo thân lại cuộc đời và phần nhục thể không còn nữa, hoàn toàn không còn dư báo ở thân này thì gọi là Vô dư Niết bàn.

Cách phân loại thứ hai :

Quả đầu tiên gọi là Tu đà hoàn. Quả thứ hai là Tư đà hàm. Quả thứ ba là A na hàm. Quả thứ tư là A la hán. Tu đà hoàn, Tư đà hàmA na hàm là ba quả chưa đoạn sạch phiền não, dư tàn tập khí còn lấp loáng, vì còn dư tàn đó nên gọi là Hữu dư Niết bàn.

Người còn thân này trên cuộc đời, nhưng đạt được quả A la hán, đạt được vô sanh, không còn dư tàn phiền não, không còn nhiễm dục trần thì nội tâm hoàn toàn thanh tịnh, dẹp sạch tâm hành, ở trong trạng thái lặng lẽ của bổn tâm gọi là Vô dư Niết bàn.

Trong Kinh Nikaya có những pháp thoại liên tưởng đến Niết bàn, Đức Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo! Có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió, không có hư không vô biên ... không có phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau; không có cả hai mặt trăng, mặt trời. Do vậy, này các Tỳ kheo! Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”

Pháp thoại thứ hai liên tưởng đến Niết bàn, Đức Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo! Có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỳ kheo! Nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.”

Cuộc đời này có cái hữu vi, sanh diệt, giả hợp nhưng hư không thì không có sanh diệt, không có giả hợp. Pháp hữu vi có tướng trạng còn hư không thì không có tướng trạng. Cái gì có hữu vi, có tướng trạng, có sanh diệt, có giả hợp thì có thời gian tồn tại và sau đó sẽ hủy diệt. Còn cái không thuộc về hữu vi, không thuộc về tướng trạng, rỗng rang thì muôn đời bất diệt. Hư không không hạn lượng tuổi thọ, chính vì vậy hư không rất tự tại. Còn thân chúng ta gió thổi bay, nước mưa ướt, lửa đốt cháy, nước nhấn chìm, nhưng hư không thì vô nhất vật, tự tại.

Cuộc sống của chúng ta có lúc vui buồn, sướng khổ, đắc thất, thịnh suy. Có thể sánh cuộc đời chúng ta như dòng sông, dòng sông có lúc nước dâng cao, lúc hạ xuống thấp, lúc nước đục ngầu, lúc nước trong veo, lúc nước chảy xiết, chảy cuồn cuộn, lúc nước chảy hiền hòa.

Và đây là pháp thoại thứ ba liên tưởng đến Niết bàn:

“ Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau. ”

 Niết bàn cũng rất tự tại như hư không, người đạt đến Niết bàn là người sống an ổn, vui vẻ nhất trên cuộc đời này, là người vượt khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Diễn tả chân lý Niết bàn, Đức Phật đã vận dụng một loại hình ngôn ngữ thật khó hiểu, nhưng nhờ tu tập với trình độ tương đối có thể thâm nhập được bằng công phu thì chúng ta có thể hiểu: Hư không không có nương tựa vào nơi nào cả nhưng hư không có mặt ở khắp mọi nơi một cách tự tại. Ngài Huệ Năng nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai.” Thiền sư Minh Chánh nói : “ Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật, công phu luống uổng một đời ai .

Chúng ta tu để trở về trạng thái vô nhất vật, tức là bản tâm bản tánh của chúng ta, trở về Đạo-nhân vô-y (Cái gì có nương tựa , cái đó có giao động; cái gì không nương tựa, cái đó không giao động). Những người đạt đến trạng thái bất động của tâm thì không bao giờ giao động trước tiền cảnh, đó là sự thể nhập của người tu, đó là sự thú vị, tiêu diêu chơn thế giới, khoái lạc hưởng vô biên. Trước khi bắt đầu học đạo, trước khi thấy được Phật, Ngài Xá Lợi Phất gặp Tỳ-kheo A Thị Thuyết trì bình khất thực với dáng vẻ tự tại, an nhiên thì trong lòng dâng niềm quý kính, liền xin hỏi đạo lý và được Tỳ kheo A Thị Thuyết trình bày về lý duyên sinh. Ngài Xá Lợi Phất đạt được sơ quả, liền nhờ Tỳ kheo A Thị Thuyết đưa đến gặp Đức Phật và sau đó đạt được A la hán quả. Ngài Mục Kiền Liên nghe Ngài Xá Lợi Phất nói bài kệduyên sinh của A Thị Thuyết cũng liền ngộ đạo.

Tóm lại, Đức Phật là Bậc Giác ngộ, đã đạt được Niết bàn. Ngài đã giúp chúng ta có được ánh sáng giác ngộ, hiểu được ý nghĩa Niết bàntối hậu của người tu, mà Đại thừa gọi là Chơn-tâm, Phật tánh, Bản-lai-diện-mục. Từ sự thể nhập đó, các Ngài muốn sanh về cõi nào thì bằng nguyện lực độ sinh chứ không phải bằng nghiệp dẫn nữa.

THIỀN TỰ TRÚC LÂM VIÊN GIÁC

Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant