Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Thi Vân Tập Cú Tập

19 Tháng Bảy 201900:38(Xem: 4404)
Thiền Thi Vân Tập Cú Tập
THIỀN THI VÂN TẬP CÚ TẬP 

1
.禪詩雲集句
Tuyển dịch, văn thể… HT Thích Huyền Tôn.

Lão Tăng sưu tập Thiền-thi, cống hiến các bạn uống trà, ngâm nga, nghiệm thâm ý, trực ngộ diệu lý Bất sanh, bất diệt. Bổng nhiên bay vút không trung, cười vui ha hả, nhìn thấy cõi trần không không Vô tận…Tam-khổ, Bát-khổ biến thành Tịnh-độ. Tu, Tu nhiều, vui thú nhiều bạn nhỉ ! 
 

 

1. Thiền-Lão thiền sư, đời Nhà Lý. Việt Nam.

Vào Năm Ất hợi (TL.1035) VL3914. Vua Lý-Thái-Tông đến thăm và hỏi:

-Hòa Thượng ở núi nầy được bao lâu ?

Hòa Thượng đáp: Đản Tri Kim Nhật Nguyệt但知今日月

Thùy Thức Cựu Xuât Thu.  誰識舊春秋

 

Dịch: (?) Ngày nay chỉ biết ngày nay,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì.

 

Có thể tạm dịch: Ngày tháng hôm nay biết rõ ràng,

Xuân Thu năm cũ mơ màng ai hay.(biết chi)

 

Nhà Vua hỏi tiếp: -Hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì ?

Hòa Thượng Lại đáp:

Túy Trúc Hoàng Hoa Phi Ngoại Cảnh,翠竹黃花非外景,

Bạch Vân Minh Nguyệt Lộ Toàn Chân.白雲明月露全真.

 

HT.Huyền Tôn, dịch:Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh,

Trăng trong mây trắng cõi toàn chân.

 

Vua Lý, hiểu được lẽ đạo thâm huyền, về triều gởi chiếu thỉnh Sư làm cố

Vấn, nhưng Thiền-sư đã Viên-tịch.

   Sư Viên-tịch năm Mậu-dần, VL.3917 (TL.1038).

Lời Chú: Cái đạo lý của quá-khứ vi-lai, của hoa-vàng trăng-sáng không cần quan

Tâm, cảnh không trước cảnh, lý tính mặc tình nó tỏ lộ hay tan biến .

 

 

2.Vua Trần Nhân Tông. Việt Nam.

Cư Trần Lạc Đạo Thả Tùy Duyên,居塵樂道且隨緣,

Cơ Tắc Xang Hề Khổn Tắc Miên.饑則餐兮悃則眠.

Gia Trung Hữu Bảo Hưu Tầm Mích,家中有寶休尋覓,

Đối Cảnh Vô Tâm Mạc Vấn Thiền.對境無心莫問禪.

 

Huyền Tôn, dịch:

Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên,

Đói ăn khát uống mệt ngủ liền.

Bảo vật dư rồi tìm chi nửa,

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.

 

Đối cảnh vô tâm: sáu căn đối với sáu trần  không nhiễm trước

tức Tâm, Cảnh thanh tịnh Ngay đó Ngộ-đạo.

 

3.Đời Nhà Lý Vua Thái Tôn (Phật Mã) Năm Mậu-thìn, VL.3907. (TL.1028).

Làm bài Thi-kệ truy tán Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi như sau:

 

Sáng Tự Nam Lai Quốc,創自南來國

Văn Quân Cữu Tập Thiền.聞君久習禪

Ứng Khai Chư Phật Tín,應開諸佛信

Viễn Hợp Nhứt Tâm Nguyên.遠合壹心源

Hạo Hạo Lăng Già Nguyệt,浩浩伽月

Phân Phân Bát Nhã Liên.芬芬般若蓮

Hà Thời Hạnh Tương Kiến,何時幸相見

Tương Dữ Thoại Trùng Huyền.相與話重玄

 

HT, Mật Thể, dich:

 

Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học thuyền. (Thiền).

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền.

Lăng-già ngời bóng nguyệt,

Bát Nhã nức mùi sen.

 

Biết được bao giờ gặp,

Cùng nhau kể đạo huyền.

 

HT. Huyền Tôn, dịch:

Ngài qua nước Nam Việt,

Đã lâu tu học Thiền.

Mở bày lòng tin Phật,

Thấy suốt rõ tâm nguyên.(1)

Rực rỡ Lăng già nguyệt, (2)

Thơm ngát Bát nhã liên.

Bao giờ được tương kiến,

Cùng luận đạo thâm huyền.

 

(1) Nguồn tâm, cũng là Chơn Tâm).

(2) Xưa ở nước sư-tử. nay là đảo tích lan. Lăng già là Bảo-thạch (đá qui)

Núi Lăng-già. Nơi Phật nói Kinh Lăng Già, và có “huyền ký”đời sau 

có vị Đại-đức tên Long-thọChứng Hoan-hỷ-địa nói “Đại-thừa diệu

-pháp” tại nước An-lạc.( Ấn-độ).

 

4. Bậc Nhàn Đạo Nhân, Huyền Giác nói :

 

Tùng Tha Bán, Nhậm Tha Phi,從他謗任他非,

Bả Hỏa Thiêu Thiên Đồ Tự Bì.把火燒天陡自疲.

Ngã Văn Kháp Tợ Ẩm Cam Lộ,我聞恰似飲甘露,

Tiêu Dung Đốn Nhập Bất Tư Nghì.消慵囤入不思儀.

Trúc Thiên, Dịch:

Mặc ai biếm, mặc ai gièm, 

Châm lửa đốt trời nhọc xác thêm.

Ta nghe như uống cam lồ vậy, 

Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.

 

Huyền Tôn dịch:

Mặc ai bán bổ, mặc ai chê,  

Đem lửa đốt trời tánh tự mê.

Nghe chê như uống bầu Cam Lộ,

Nhẹ nhàng lan tỏa khó nghĩ bàn. (khó lời phê).

 

Người tu có năng lực nhẫn nhục lớn, vừa nghe lời “phê phán chê bai”

Liền ngay đó “Tu lập tức” coi như họ đang hì hục “Lấy lửa đốt trời”

Nhưng ta thì đang uống cam lồ! và quí trọng họ! Vì họ đang giúp cho

ta “TU” Và tự thấy sung sướng vì ta có TU thật sự.Nở nụ cười An-lạc.

 

5. Bậc Nhàn Đạo Thiền Sư Huyền Giác lại dạy :

 

Quán Ác Ngôn Thị Công Đức,觀惡言是功德,

Tức Thị Thành Ngô Thiện Tri Thức.即是成吾善知識.

Bất Nhân Sán Báng Khởi Oan Thân,不因訕謗起冤親,

Hà Biểu Vô Sanh Từ Nhẫn Lực.何表無生慈忍力.

 

Huyền Tôn, Dịch:

Nghe lời hung ác, thêmcông đức, 

Ta cảm ơn người thiện tri thức.

Nếu vì oán trách khởi oan thân,

Sao được vô sanh từ nhẫn lực.

Trúc Thiên, Dịch:

Xét lời ác,ấy công đức

Đó mới chính là thầy ta thực.

Chớ vì báng bổ nổi oan thân

Sao tỏ vô sanh, nêu nhẫn lực.

Tu hành, gặp người ác mắng chưởi, ngay lúc đó ta tụng bài kệ này. Ta Tu Ngay lúc đó! Ta chuyển lời khó nghe thành lời “Công Đức” Ta coi họ là người bạn tốt, vì nhờ những lời mắng chưởi đó ta thấy ta là người có “TU” và đang Tu. Ta khởi tâm “Vui Sướng” vì ta đang có Đạo Lực Nhẫn Nhục liền cảm ơn họ. Ta mĩm cười, nếu không có những lời Ác độc đó thì suốt đời ta lấy đâu để biết ta có thật tâm tu hành. Tu đi bạn nhé!

 

6. Khuôn Việt Thái Sư.  Thời vua Đinh-Tiên-Hoàng (Đinh Bộ Lãnh)

Ngài Họ Ngô Pháp Hiệu Chân-Lưu. Năm (TL.971) Tân-mùi VNQL.3850. Ngài 40 tuổi, được Thụ phong Chức Khuôn Việt Quốc Sư ( hay Thái Sư)

Lo khuôn phò đất nước Việt. Vua vì quá mến phục tài năng và đạo dức của Ngài nên đã phong Tăng Thống về Phật Giáo. Khuôn Việt Quốc Sư quản Lãnh Triều Đình đối ngoại cho nhà Vua.Hơn 11 năm sau Vua Lê Đại Hành cũng kính trọng Ngài trong chức vụ TháiSư và nhờ Quốc Sư viết thư cho vua Tàu và tiếp sứ thần Lý Giác. Nhờ đó sứ Tàu thành tâm kính trọng Vua Nam.

 

Sứ viết Bài thơ như sau:

Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du,幸遇明時贊盛猷(mưu kế)

Nhứt thân lưỡng độ sứ giao châu.壹身兩度使交州

Đông đô tái biệt tâm vưu luyến,東都再別心尤戀

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.南越千重望未休

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch.馬踏煙雲川浪石

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.車辭青幛泛長流

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,天外有天應遠照

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.溪潭波淨見蟾秋.

       

HT.Mật Thể, Dịch:

May gặp Minh-quân giúp việc làm.

Một mình hai lược sứ miền Nam.

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ,

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm.

Ngựa đạp mây bay qua suối đá,

Xe vòng núi chạy tới giòng lam.

Ngoài trời lại có trời soi rạng,

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.

        

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Gặp buổi minh thời mưu tính xong,(Du. Là mưu kế)

Một thân hai lược sứ Giao Châu.

Đông Đô qua lại lòng lưu luyến,

Nam Việt ngàn trùng lắm nhớ mong.

Ngựa sãi gió mây xuyên suối đá,

Xe lăn nghiêng ngữa suốt dòng lưu.

Ngoài trời còn có trời soi sáng.(Vua Tàu và Vua Việt)

Biển lặng đầm trong thấy vẻ Thu.

        

Vua Đại Hành nhờ Quốc Sư Khuôn Việt, viết thư trả lời cho Sứ thần Lý Giác.

Thư viết theo điệu “Tống vương lan qui” như sau:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương祥光風好錦帆張

Thần Tiên Phục đế hương.神仙復帝

Thiên lý vạn lý thiệp thiên lảng,千里萬里涉滄浪

Cửu thiên qui lộ trường.九天歸路長

Nhân tình thảm thiết đối ly tràng,人情慘切對離腸

Phan luyến sứ tinh lang.攀戀使星郎

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,願將深意為南強

       

Phân minh tấu ngã hoàng.分明奏我皇

Lẽ ra, Phân Minh Tấu “ Thượng “Hoàng, mới đúng. Ngã Hoàng”là Vua của Mình” Vì Sứ thần

Về lại Tàu, Tâu tốt với vua Tàu về việc của “Nam cương”.!

       

HT.Mật Thể, Dịch:

Gió hòa phất phớt chiếc buồm hoa,      

 Thần tiên trở lại nhà.(Tôn trọng cao quí)

Đường muôn nghìn dặm trải phong ba,

Cửa trời nhắm đường xa.

Một chén quan-hà dạ thiết-tha,   

Thương nhớ biết bao là.

Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà,
Bày tỏ với vua ta.        

 

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Gió lộng buồm hoa thuyền lướt mau,    

Sứ thần trở lại “Tàu”. (1)

Biển rộng ngàn xa cảm xót đau,   

Trời xanh,xanh một màu.

Ân nghĩa người Nam thấm ngọt ngào,

Lưu luyến lòng xốn xao.

Tình thâm chan chứa biết là bao, 

Tâu rõ với Vua Nhà. (Thượng Hoàng).

(1): Tôn kính không quá cao.

          

7. CÓ , KHÔNG ?Thi cảm: HT.Huyền Tôn.

Chớ vương vào có, mơ có có,

Học đạo không không, phải thật không.

Có có mà chi, đeo với có,

Đã không, thì chớ cột vào không.

Luân-hồi sanh-tử, ôi có có!

Bỏ hết trần lao lặng lẻ không.

Có không, có có, không không có,

Bạn đã thấy gì, lẽ có không?

Cái có Chơn-thường là có có.

Cái không, không thiệt lại không không.

Tất cả đều không, không thật có,

Hiểu rồi thật có với thật không.

Không như sừng thỏ, là không có!

Có tợ chiêm bao, ấy có không?    

Chẳng chấp vào không, chấp vào có,

Thong dong tự tai, kể gì Có Không.

       

        8. HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ.

Nhạn Quá Trường Không,鴈過長空

Ảnh Trầm Hàn Thủy.影沈寒水    

Nhạn Vô Lưu Tích Chi ý,鴈無留跡之意

Thủy Vô Lưu Ảnh Chi Tâm.水無留影之心

        

HT. Nhất Hạnh, Dịch:

Nhạn bay ngang trời,

Bóng chìm đầm lạnh.

Nhạn không có ý để lại dấu tích,

Nước không có ý lưu giữ bóng hình.

        

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Nhạn bay trên không, 
Bóng chìm trong nước.

Nhạn không có ý lưu hình,

Nước đâulại giữ bóng hình Nhạn bay.

 

Thiền ý : Đọc lời Thơ, Thấy cả có lẫn không. Có, có tất cả. Không, không tất cả! “Tánh Không” nhiệm mầu của “Thiền Thi” làm cho người đọc hiểu được Vật thể hiện ở nơi đâu, tTâm ảnh hiện ở nơi dó. Ly hai cảnh Tiền-trần tức nhận được Chơn-không.

 

        9. Vạn Hạnh Thiền Sư.

Thân Như Điện Ảnh Hữu Hoàn Vô,身如電影有還無,

Vạn Mộc Xuân Vinh Thu Hựu Khô.萬木春榮秋又枯.

Nhậm Vận Thạnh Suy Vô Bố Úy,任運盛衰無佈畏,

Thạnh Suy Như Lộ Thảo Đầu Phô.盛衰如露草頭鋪.

       

HT. Mật Thể, Dịch:

Thân như bóng chớp chiều tà,

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời.

Sá chi suy thạnh ở đời,

Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

        

HT.Thanh Từ, Dịch:

Thân như bóng chớp có rồi không,

Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng.      

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.

 

HT. Huyền Tôn, Dịch:

Thân như bóng chớp córồi không,

Cây cối xuân xanh, thu đổi hồng.

Mặc cuộc thạnh suy đừng lo sợ,

Thạnh suy như giọt, đọng sương đông.

 

10. Chuyết Công Thiền Sư. Đời thứ 27, Tông Lâm TếTrước Khi Viên Tịch Ngài Nói Thi Kệ :

 

Sấu Trúc Trường Tùng Trích Thúy Hương,瘦竹長松滴翠香

Lưu Phong Sơ Nguyệt Độ Vi Lương.流風初月度微涼

Bất Tri Thùy Trụ Nguyên Tây Tự,不知誰住原西寺 ?

Mỗi Nhựt Chung Thanh Tống Tịch Dương.每日鐘聲送夕陽

       

HT.Thanh Từ, Dich: 

Tre gầy thông vót nước rơi thơm,

Gió thoảng trăng non mát rờn rờn.

Nguyên Tây ai ở người nào biết?

Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn.

 

HT. Huyền Tôn, Dịch:

Tùng dài tre ốm nhỏ giọt thơm,

Trăng non gió thổi mát nhẹ vờn,

Nguyên Tây cổ tự ai đang ở ?

Chuông chùa ngân tỏa tản hoàng hôn

Nói kệ xong, Sư bảo đại chúng; “Nếu ai động tâm khóc lóc,không phải là đệ tử cùa ta”. Sư ngồi yên thị tịch, mùi hương lạ. đầy chùa cả tháng mới tan. Đồ chúng xây tháp để nhục thân của Sư tại núi Phật Tích,

        Kính mến chào độc giả!. HT.Thích Huyền Tôn.

        Mùa Vu-Lan 2642, VL.4897. Kỷ-hợi (TL.2019). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5030)
Nơi miền bắc Ấn Độ xưa Gần Ba La Nại có khu rừng già Nai con vừa mới sinh ra Dáng hình đẹp đẽ, thật là hiếm hoi
(Xem: 7006)
Phật tánh dung thông nghĩa chẳng biên, Ba ngàn thế giới cũng không miền. Tùy duyên bày phép lần chân tướng, Độ pháp lập khuôn ứng bản nguyên.
(Xem: 5808)
Chân tâm rỗng lặng thật vô biên, Vốn tự xưa nay tỏa khắp miền... Gặp cảnh, tuỳ cơ bày diệu ngữ, Giao duyên, ứng lúc hiện chơn nguyên.
(Xem: 8270)
Thuở xưa Đức Phật chúng ta Hồi còn tại thế, tiếp bà mẹ kia, Bà ta nức nở não nề Thương con vừa chết, thảm thê cõi lòng,
(Xem: 5149)
Thời xưa ở tại vùng kia Có hai người nọ chuyên nghề tiểu thương Bán buôn lặt vặt tầm thường Đồ dùng bếp núc, nữ trang rẻ tiền.
(Xem: 5386)
Tổ Tổ xưa nay khéo lập tông, Vững niềm tin Phật, Phật nơi lòng. Thân này huyển hoá, hư đâu thật, Vật nọ vô thường, có chợt không.
(Xem: 7981)
Xuống chốn trần gian được mấy khi Rong chơi chốc lát lại ra đi. Nổi trôi sanh tử còn chưa dứt, Đắm đuối tướng danh khó viễn ly.
(Xem: 5608)
Vườn thiền cảnh vắng cỏ hoa thơm, Nắng gọi hồn thơ xua nỗi hờn. Trúc biếc lung lay ngân địu thở, Mây hồng lãng đãng quyện niềm ơn.
(Xem: 5431)
Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình.
(Xem: 6154)
Tâm nhiên tỏa chiếu bốn phương trời, Ánh hiện từ bi rạng khắp nơi... Đối cảnh tuỳ duyên không chướng ngại, Tham thiền nhập định chẳng ngăn đôi.
(Xem: 7872)
Ngàn năm bên lối nhỏ Trút niềm đau muộn phiền Ngàn năm mang hơi thở Dìu vợi trời tam thiên.
(Xem: 4865)
Sài Gòn chợt nắng gió hiu hiu Tôi đến thăm Ôn một buổi chiều Phố phường khói bụi người qua lại Xe cộ bên đường rộn tiếng kêu.
(Xem: 4969)
Ở đời quý nhất hòa bình, Sống đâu chẳng sợ một mình chơi vơi, Thân hòa với cả mọi người, Trong êm ngoài ấm suốt đời lạc quan
(Xem: 4800)
Chơn như lẳng lặng ở trong ta, Quét dọn lâu ngày sẽ hiện ra. Tập tánh dứt mê, lìa địa ngục, Khai tâm liễu ngộ, rõ Ta Bà.
(Xem: 6290)
Sự đời được mất rõ vô thường, Cội gốc sân si vốn khó lường. Chuyện đến tùy duyên không vướng mắc, Việc qua cởi bỏ chẳng còn vương.
(Xem: 4851)
Từ thuở vào chùa học kệ kinh, Lăng Nghiêm, Bát Nhã sáng lung linh. Đèn thiền rạng chiếu theo trang chữ, Đuốt tuệ ngời soi hiện bóng hình.
(Xem: 5542)
Vị cao tăng đắc đạo rồi Tính ra thấm thoắt nửa đời xuất gia Tu nơi thiền viện phương xa Dứt tình quyến luyến quê nhà từ lâu,
(Xem: 6697)
Ngày xưa có một bầy nai Nai đầu đàn quả là tài giỏi thay Một ngàn nai họp thành bầy Nhởn nhơ chung sống, vui vầy, rong chơi,
(Xem: 4923)
Lời kinh ý Phật gởi trao Ta nay xin nguyện khắc vào trong tâm Muôn ngàn hướng đẹp sâu thâm Đêm ngày gìn giữ nhiếp tâm hành trì .
(Xem: 5414)
Giường nan xốc xếch dưới trăng vàng, Trở giấc chim mơ, rộn đại ngàn. Loáng thoáng lá đưa đùa gió lạc, Rì rào suối lượn nuối đêm tan.
(Xem: 5568)
Tội từ tâm khởi tạo ra Chẳng ai cứu chuộc đời ta bao giờ Đừng mong cứ mãi cậy nhờ Sống đời ỷ lại luôn chờ cúng xin .
(Xem: 5600)
Nước kia có một quốc vương Nhân từ, vui vẻ, dễ thương vô cùng Xuân về hoa lá tưng bừng Vua mang quà tặng đến từng xóm thôn Thăm người nghèo khó neo đơn, Hòa mình cùng với vui buồn của dân.
(Xem: 6476)
Cái hẻm nhỏ tẹo tèo teo Mà bao kiếp sống vẫn đeo tháng ngày Trẻ em bụi bặm loay hoay Mua tần bán tảo đâu hay kiếp nghèo
(Xem: 8007)
Từ thiện cơm chay giữa phố đông, Sẻ chia khó nhọc giới lao công. Cực khổ nắng mưa cùng năm tháng, Vất vả mưu sinh khắp cõi trần.
(Xem: 5031)
Cách trở bao năm nay trở về, Rộn ràng ký ức chuổi dài thê, Xa nghe vạn kiếp chìm lưu lạc, Đánh thức hồn ta giữa ngộ mê.
(Xem: 6587)
Đời tu cao đẹp quá thôi Ba y một bát đứng ngồi thong dong Giản đơn chiếc áo nâu sòng Cơm canh đạm bạc gánh bồng nhẹ vai.
(Xem: 4965)
Mỹ Quốc thiên tai bão cuốn qua Harvey(TX)mới dứt đến Irma(FL) Hai cơn bão dữ tràn ngập tới Khốn khổ dân lành chạy thoát ra .
(Xem: 5806)
Chẳng lo chi bao cuộc đời triền phược Sống an vui tu tập dứt lo xa Mở rộng lòng đối xử với người ta Con đường đạo không còn chi trở ngại .
(Xem: 5358)
Biết nhận rõ cuộc đời không là thật Đến và đi như giấc mộng phù vân Sao ta không sống đẹp giữa thế trần Lấy tình thương làm con đường đạo nghiệp .
(Xem: 4295)
Một trong tôn giáo cổ xưa, Có thầy tu nọ rất ưa tế thần, Tuy ông nổi tiếng xa gần, Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay.
(Xem: 3683)
Xưa kia ở chốn núi rừng, Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm, Họp bầy nô rỡn quanh năm
(Xem: 4624)
Thuở xưa có một thanh niên, Rất là hiếu thảo khắp miền biết danh, Là con một, đã trưởng thành, Nhưng chưa chịu lập gia đình với ai
(Xem: 5679)
Thao thức mãi với yêu thương ngày cũ, Vẫn sống hoài trong tâm tưởng mẹ ơi !
(Xem: 12792)
Cái vô cái hữu vốn là không, Hiểu được duyên sanh chớ nặng lòng. Đông đến tuyết rơi, sương giá lạnh, Hè qua phượng trổ, cảnh trời trong.
(Xem: 3924)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân, Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang, Ông cha tu rất đàng hoàng, Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên...
(Xem: 3216)
Sắc thu phơi trên lá, Khói quyện vương hương trầm, Chùa đông như ngày hội, Chân bước mãi trầm ngâm.
(Xem: 3505)
Mưa đêm trở tiết, lạnh quanh phòng, Lặng tiếng chuông đưa quặn thắt lòng.
(Xem: 3644)
Mẹ để con vào dạ, Nâng niu mười tháng trường, Đi, đứng, làm mọi việc... Vun đắp tình yêu thương!
(Xem: 3703)
Con về, ngủ dưới gốc thông, Trong mơ hé nụ đóa hồng Vu Lan.
(Xem: 3772)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 3504)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 9520)
Mây trắng vẫn thênh thang lùa vào nỗi nhớ, Phương trời cũ, Biết đâu tìm hơi thở, Bóng mẹ mùa thu đổ xuống bóng hoàng hôn !
(Xem: 4350)
“Tâm hiếu là tâm Phật. Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với truyền thống người Việt ta, hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết, rất thiêng liêng và cao cả.
(Xem: 4442)
Người ngồi đó nhìn dòng đời biến chuyển, Qua bốn mùa thay đổi bởi thời gian, Đẹp tự nhiên như gió cuốn mây ngàn, Tâm thanh thoát giữa hành trình cô độc.
(Xem: 6018)
Duyên đến duyên đi cũng là duyên Cớ chi ta lại phải ưu phiền Tuỳ duyên ta sống cho đúng đạo Cứ để dòng đời chảy tự nhiên .
(Xem: 8410)
Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm, Mới gây công đức vô ngần Cũng như gặp Quán Thế Âm được rồi!"
(Xem: 5510)
Đúng lời đức Phật dạy rồi: "Tâm ta đi khắp mọi nơi trên đời Cũng không tìm thấy được người Đáng yêu, đáng quý hơn nơi thân mình!
(Xem: 3543)
30 tháng 7, một mình, Mẹ ra biển động, Tình Cha lênh đênh, Bè lau quằn quại bờ sinh tử, Oa oa trẻ khóc, Rạng bình minh
(Xem: 5872)
Dòng đời như trường đấu, Được mất với hơn thua, Có không cùng thất bại, Diễn mãi chuyện trò đùa!
(Xem: 5071)
Lững thững đến, Lững thững đi, Tử sinh vẫn đó, cần chi vội vàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant