Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

28 Tháng Giêng 202023:19(Xem: 4969)
“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Đọc “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Nguyên Giác

bia sach Tho Thien Le Nguyen Zen Poems

Trong khi chờ năm mới, một trong những niềm vui lớn là có vài ngày thư thả để lòng lắng xuống, mở trang sách xưa để đọc lại thơ Thiền… Năm nay, niềm vui của tôi là đọc tác phẩm “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” – một tuyển tập song ngữ Anh-Việt, một công trình văn học mất hơn 10 năm để thực hiện.

Bản sách giấy trong lần xuất bản 2019 của NXB Hội Nhà Văn chỉ in 500 ấn bản, dày 160 trang, trên khổ giấy quý 25 X 25 cm. 

 

Bìa sách “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems.”

 

Chủ biên là Nguyễn Bá Chung; dịch thơ tiếng Việt là Nguyễn Duy – Nguyễn Bá Chung; dịch thơ Anh ngữ là Sam Hamill – Nguyễn Bá Chung; Hòa Thượng Thích Phước An viết Lời giới thiệu (trang 11-13); Nguyễn Duy Sơn thực hiện phần hình ảnh; Nguyễn Duy thiết kế tổng thể; Võ Anh Thơ thiết kế mỹ thuật.

Có thể hình dung mức độ thực hiện rất mực công phu, khi chúng ta đọc thấy trong Lời Cảm Tạ. Trong đó  nơi trang 9-10 ghi rằng:

“… Trước tiên, chúng tôi xin cảm tạ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã cung cấp cho chúng tôi bản chữ Hán của 12 bài thơ mà chúng tôi không tra cứu được. Thầy Tuệ Sỹ đã hoan hỷ đọc qua một bản thảo trước đây của Tuyển Tập này, chỉ dạy cho chúng tôi biết các thuật ngữ Phật giáo đã được chuyển dịch sang Hán văn như thế nào, và đã sửa cho chúng tôi một số lầm lỗi. Những lời phê bình của Thầy về bản dịch thơ tiếng Việt hết sức xác đáng và đã được điều chỉnh. Ở giai đoạn cuối, Tiến sĩ Trần Thị Hải Yến, Trưởng phòng Văn học Việt Nam Cổ Trung Đại, Viện Văn học, đã đọc lại toàn bộ Tuyển Tập, chỉ ra một số sai sót, giúp Tuyển tập hoàn thiện hơn. Gần đây nhất Tiến sĩ Nguyễn Nam, giảng viên sáng lập Trường Đại Học Fullbright Việt Nam, đã duyệt lại toàn bộ Tuyển tập và cung cấp phông chữ Hán cho soạn giả. Chúng tôi thành thật tri ân tất cả các học giả nêu trên.”

Nghĩa là, Tuyển tập được thực hiện rất mực công phu. Và do vậy, có thể xem như toàn bích về các ý nghĩa nhà Thiền khi dịch thơ.

Nhà văn Cao Huy Thuần trong bài viết nhan đề "Thơ Thiền" trên tạp chí Diễn Đàn nơi đầu bài ca ngợi Tuyển tập: 

“Nguyễn Duy qua chơi Pháp, mang theo quyển sách "Thơ Thiền Lê-Nguyễn" anh vừa xuất bản cùng với Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill. Sách in mỹ thuật, giấy láng, bìa cứng, ảnh đẹp, sang trọng, cầm trên tay chỉ muốn nâng niu. Lời giới thiệu ở đầu sách, dưới ngòi bút của thầy Thích Phước An, xứng tầm với sách, đầy đủ trong nội dung, đạo vị trong lời lẽ, tưởng khó nói gì thêm.” (1)

Thật đúng như thế, khó nói gì thêm.

Nói về ý nghĩa nhà Thiền, đã được hai vị Thầy lớn -- Thầy Tuệ Sỹ và Hòa Thượng Thích Phước An – đọc, góp ý, hiển nhiên là toàn hảo, không thể sơ suất.

Nói về chữ nghĩa, Nguyễn Duy là một trong vài nhà thơ xuất sắc hàng đầu của dân tộc, khi dịch lại thơ Thiền trong thể lục bát, hiển nhiên là tuyệt bút khó tìm.

Nói về bản dịch sang tiếng Anh, cả hai học giả Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill đều là hai cổ thụ trong học giới Hoa Kỳ. 

Do vậy, tác phẩm song ngữ Anh-Việt “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” là một viên ngọc sáng trong các ẩn phẩm –có giá trị trên nhiều lĩnh vực như thi ca, Thiền lý, văn dịch đối chiếu… Rất mực hy hữu.

Nơi đây, chỉ xin đưa ra vài điểm nhận thấy trong khi đọc. Bản thân tôi vốn học Anh văn không được chính quy, cho nên ý kiến nơi đây chỉ là nghi vấn, không dám nói là nhận định.

Chữ “vị sư” (trong đoạn gần giữa trang 11) trong bài của Thầy Phước An được dịch là “bonze” (gần giữa trang 14). Đây là một chữ rất hiếm khi gặp. Trong hai trang nhà lớn nhất về Phật giáo (SuttaCentral và Access to Insight) khi dùng chức năng search, chúng ta không thấy chữ “bonze” nào. Chữ cổ nhất là "bhikkhu" (phiên âm: tỳ khưu, hay tỳ kheo), chữ thường nhất là “monk” (sư) hay “nun” (ni sư) – và khi viết tránh phân biệt tính phái là dùng chữ “monastic.” 

Trong khi đó, theo tôi nhớ, trong suốt thời đi học của một người bình thường tại Việt Nam, có lẽ cũng không gặp chữ “bonze” tới một lần. Chữ “bonze” chỉ gặp trong học giới Hoa Kỳ, phần lớn có liên hệ tới các văn thư công quyền Hoa Kỳ, dễ gặp nhất là các văn thư về Việt Nam trong năm 1963. 

Như thế, xin nêu nghi vấn, có phải các dịch giả (Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill) muốn tạo ra một văn phong cổ và đặc biệt nhắm tới một đối tượng độc giả là các học giả Hoa Kỳ quen thuộc với lịch sử VN thời kỳ 1950s-1970s? 

Có một suy nghĩ về trích dẫn. Nơi trang 12, bản Việt ngữ, và trang 14, bản Anh dịch, Thầy Phước An có dẫn hai đoạn từ hai kinh, một từ Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh) và một từ Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh) nhưng không ghi ký số, cho nên độc giả có muốn tìm bản gốc trong hai tạng kinh kia cũng khó dò nổi, vì Tương Ưng Bộ có hơn ba ngàn bản kinh, và Trung Bộ có tới 152 bản kinh.

Nhưng cách viết như thế sẽ tránh sự rườm rà, không làm độc giả suy nghĩ về ký số, và sẽ tập trung vào thơ dịch hơn. Nghĩa là, viết theo kiểu “Đức Phật nói rằng…” nhưng không dẫn ra bản kinh gốc. 

Mặt khác, cũng có thể nhận thấy tính đa dạng trong văn phong dịch. Bài thơ “Du Nam Hoa Tự” của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), có hai câu cuối nơi trang 18 là:

Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy,

Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.

Trong phần dịch (trang 20) dịch nghĩa hai câu cuối là:

Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa,

Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian.

Dịch thơ hai câu này, Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung viết:

Tào Khê tuôn chảy một giòng

Tẩy cho muôn kiếp sạch bong bụi trần.

Độc giả có thể khởi lên ý nghĩ: có gì khác giữa chữ “dòng” và chữ “giòng” trong cùng trang 20? Tại sao trong cùng trang, lại dùng hai chữ khác nhau (tuy rằng, cả hai chữ đều đúng và đều phổ biến)?

Ngó sang trang 21, thắc mắc cũng hiện ra. Vì bản tiếng Anh, nơi phần dịch nghĩa hai câu này viết:

stream of Tao Khe passes by the gate

Clean all the dusts that have clung in so many life-times to people.

Hai câu trong phần này Hamill dịch sang thơ là:

Tao Khe River flows beside the gate,

Clean the dust that has clung to so many people’s lives.

Hiển nhiên là dịch giả cố ý dùng hai chữ khác nhau trên cùng trang, vì có thể hiểu rằng chữ stream là dòng nước nhỏ, và river là dòng nước lớn… và dịch giả muốn giữ văn phong riêng. Nói như thế, để biết rằng dịch giả đã cân nhắc nhiều chữ, để dùng trong nhiều ngữ cảnh, chứ không phải tự tiện. Xin nhắc lại, tiếng Anh của bản thân tôi học không chính quy, cho nên không dám khẳng định về ngữ nghĩa. Chỉ suy đoán theo trực giác thôi.

Một bài thơ nổi tiếng của ngài Minh Châu Hương Hải (1628 – 1715) nơi trang 30 có hai câu đầu là:

Phan văn tự kỷ mỗi thường quan

Thẩm sát tư duy tử tế khan.

Trong phần Việt dịch trang 32, dịch nghĩa là:

Mỗi giây phút trở về xem xét tâm mình

Khảo sát và tư duy thật kỹ càng.

Và do Nguyễn Bá Chung dịch thơ là:

Từng giây phút tự xét mình

Suy đi ngẫm lại tâm hình rõ ra.

Hai câu thơ theo âm chữ Hán-Việt nêu trên gần như ai trong nhà Thiền ở Việt Nam cũng thuộc nằm lòng. Nhưng chữ “tâm hình” của Nguyễn Bá Chung là chữ rất mới, thấy rõ là để giữ âm vận “inh” với chữ “mình” cuối câu lục ở trên. Sáng tạo chữ như thế là tuyệt vời, vì khi chúng ta đọc, tự nhiên cũng thấy nghĩa minh bạch. Mới biết, dịch là công trình gian nan, đầy sáng tạo.

Tuy nhiên, trong phần tiếng Anh của Sam Hamill, khi dịch câu đầu trong hai câu trên nơi trang 33, lại dư chữ, thành ra dư nghĩa.

Literal translation (Dịch nghĩa): 

Every moment be ready to watch one’s mind…

Và Poem (thơ):

Every moment, be prepared to watch one’s mind…

Về văn phạm và âm điệu thì hiển nhiên tuyệt vời, nhưng về Thiền lý thì lẽ ra nên rút ngắn hơn, bỏ nhóm chữ “be ready to” (sẵn sàng để) và bỏ nhóm chữ “be prepared to” (sắp sẵn để) thì sẽ trực tiếp hơn, lộ ý người thầy (Minh Châu Hương Hải) đang dạy học trò (độc giả).

Đối với người học Thiền, phần lớn thơ trong Tuyển tập đều quen thuộc. Nhưng trong Tuyển tập đã có thêm một số vị ít được quen tên, trong đó tôi ưa thích đặc biệt là bài thơ “Độc Phật Kinh Hữu Cảm” cùa Nguyễn Danh Nho (1638-1699). Ngay lần đầu mở ra đọc, bản âm Hán-Việt ở trang 34, bản Việt dịch trang 36 và bản Anh dịch trang 37, tôi say mê tức khắc, và thắc mắc tại sao tới bây giờ mình mới gặp bài thơ này.

Thơ của Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung cũng tuyệt vời, khi dịch bài của Nguyễn Danh Nho với 4 câu cuối thất ngôn bát cú chuyển sang lục bát:

Nghiệp anh hùng, lá thu rơi

Giàu sang, hoa rụng giữa trời mưa xuân.

Không tức sắc, sắc tức không,

Có đâu sừng thỏ rùa lông bao giờ!

Dòng cuối đảo chữ “sừng thỏ rùa lông” (lẽ ra: sừng thỏ lông rùa) cũng là ứng biến để giữ vần “ông” vậy mà không làm vướng dòng suy nghĩ của độc giả, phải nói rằng tuyệt bút, nghe bất ngờ nhưng rất mực tự nhiên.

Trong Tuyển tập cũng có một bài thơ ít được các học giả về Thiền chú ý tới: bài thơ “Tiêu Tự Thần Chung” (Chuông Sớm Chùa Tiêu) của Mạc Thiên Tích (1708-1780), một võ tướng có công mở mang đất Hà Tiên và được Chúa Nguyễn phong chức Tổng Binh Đại Đô Đốc. Là con Mạc Cửu (người dẫn một nhóm người Trung Quốc tới Hà Tiên lập nghiệp vì chống triều đình nhà Thanh), Mạc Thiên Tích nhiều lần dẫn quân đánh bại quân thổ phỉ Trung Quốc, quân Khmer, quân thổ phỉ Mã Lai… Khi quân Tây Sơn tấn công Gia Định năm 1776, Mạc Thiên Tích chạy qua Xiêm (Thái Lan); khi vua Xiêm nghi ông làm gián điệp cho Gia Định và giết các con lớn của ông và 50 người tùy tùng, Mạc Thiên Tích tự sát. Mạc Thiên Tích yêu thơ văn, đã tổ chức Tao đàn Chiêu Anh các. 

“Chuông Sớm Chùa Tiêu” là một bài thơ rất mực tuyệt vời. Trong Tuyển tập, bản âm Hán-Việt ở trang 58, bản dịch Việt ở trang 60, bản Anh dịch trang 61.

Bài thất ngôn bát cú, do Nguyễn Duy chuyển sang thơ lục bát, với 4 câu cuối như sau:

 

Giật mình nghe tiếng hạc qua

Quạ kêu nương bóng trăng tà cuối đêm

Mọi nhà còn tựa gối êm

Tiếng gà báo sáng rộ lên bốn bề.

Nỗi cô đơn cùng cực đã hiển lộ trong thơ, trong cái giật mình của nhà thơ, trong tiếng kêu lưng trời của chim hạc, và rồi nỗi cô đơn tột cùng hiện ra nơi ánh trăng nghiêng tà tà cuối đêm và rồi tiếng gà. Thơ Thiền hình như luôn luôn đi song hành với những nỗi cô đơn lạnh người như thế.

Trong Tuyển tập cũng có một tác giả ít được các sách về Thiền nhắc tới là Vũ Tông Phan (1800-1851), một nhà giáo dục và là bậc thi hào của thế kỷ 19.

Bài thơ họ Vũ nhan đề “Trấn Quốc Quy Tăng” bản âm Hán-Việt trang 110, bản Việt dịch “Sư Về Chùa Trấn Quốc” trang 112, bản Anh dịch “A Monk Returns To Tran Quoc Pagoda” trang 113. Đọc bài thơ này, chúng ta nhận ra nỗi cô đơn tột cùng của nhà sư trong thơ khi bước trở về ngôi chùa Trấn Quốc. Bài thất ngôn bát cú này có câu thứ năm và sáu, hiê3n lộ cái cô đơn tột cùng trong vũ trụ:

Lưu liên nguyệt trúc khan cô ảnh

Giải cấu vân âu nhận cổ bằng.

Dịch nghĩa nơi trang 112: 

Lưu luyến xem bóng cây trúc cô đơn lẫn dưới trăng

Tình cờ gặp gỡ chim âu với mây trời mà nhận ra [bạn cũ].

Chuyển sang dòng thơ lục bát tuyệt vời của Nguyễn Duy là:

Lặng xem trúc lẻ trăng ngà

Tình cờ chim bạn nhận ra mây lành…

Thơ Thiền nào cũng hiển lộ nét cô đơn trong vũ trụ tương tự như thế. Bởi vì trong Khổ Đế, xuyên suốt sinh, già, bệnh và chết luôn luôn là một chúng sinh và chỉ một đang chuyển biến, đang chảy xiết. Không ai ra đời giùm để chịu khổ giùm, không ai bệnh giùm và chịu chết giùm. Và trong tận cùng vẫn là nỗi cô đơn của người bước vào đường đạo, nơi đó nhà sư (hay nhà thơ) chỉ như cây trúc đơn độc đứng làm bạn với ánh trăng khuya, và chỉ như cánh chim âu đơn độc làm bạn với vầng mây cao.

Trong “Lời Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Thiền Lê-Nguyễn” do Hòa Thượng Thích Phước An viết, nơi trang 11-16, đã ghi nhận về Tuyển tập:

“Trong ba mươi tác giả của ba mươi bài thơ trong tuyển tập này, ta có thể thấy đủ mọi thành phần trong xã hội vào thời Lê Nguyễn.

Ngoài các Thiền sư ra , thì còn có vua chúa, giới quý tộc, những bậc anh hùng đánh đuổi giặc phương bắc xâm lược như Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà Nho vui thú điền viên Nguyễn Khuyến đến cả kẻ nổi loan chống lại triều đình như Cao Bá Quát .v.v….nghĩa là tất cả đều lấy cảm hứng từ Phật Giáo hay những ngôi chùa của Phật Giáo.

Nhưng tại sao Phật Giáo lại được giới trí thức, Nho sĩ đón nhận một cách nồng nhiệt như vậy?”

Xin lập lại câu hỏi vừa dẫn: Tại sao giới trí thức đón nhận Phật Giáo một cách nồng nhiệt như vậy? Chúng ta cũng có thể hỏi thêm tương tự, rằng tại sao hoa lá cây rừng lại hướng về ánh mặt trời một cách nồng nhiệt? Câu trả lời đơn giản, vì Phật Giáo là ánh sáng, là giải thoát, là hạnh phúc tuyệt trần.

Tuyển tập song ngữ “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” đã góp một phần rất tuyệt vời khi đưa ra ánh sáng một phương diện khác của ảnh hưởng Thiền tại Việt Nam: ba mươi bài thơ Thiền thời Lê-Nguyễn được phiên âm Hán-Việt, được dịch nghĩa, được chuyển thành thơ lục bát, và được dịch sang tiếng Anh cả phần nghĩa và thơ.

Tuyển tập này là một công trình hy hữu, cần hơn 10 năm để hoàn tất. Phật tử và các nhà nghiên cứu đang rất cần những công trình như thế.

Xin gửi lời chúc mừng Tuyển tập và trân trọng cảm ơn những người đã góp sức thực hiện Tuyển tập, cụ thể là Chủ biên Nguyễn Bá Chung, nhà thơ Nguyễn Duy và học giả quá cố Sam Hamill.

Vì chỉ in có 500 ấn bản, cho nên có thể sẽ khó tìm mua. Độc giả quan tâm, có thể email về NXB Hội Nhà Văn: nxbhoinhavan65@gmail.com

.

GHI CHÚ:

(1) Cao Huy Thuần. Thơ Thiền. Diễn Đànhttps://www.diendan.org/sang-tac/tho-thien

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6045)
Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
(Xem: 4468)
Sống chết ta xem nhẹ Như lá rừng thoát bay Lúc sống không thù hận Khi chết chẳng đoái hoài .
(Xem: 5702)
Một phần nhỏ làm quà vui Tết Gởi bà con các hộ quê ta Xuân về người Việt ở xa Chung lòng gom góp thiết tha nhiệt tình .
(Xem: 6324)
Lắng chuông tiếng chùa ngân Vạn dập dìu tiếng kinh Ngày nao, nhớ mãi năm nào Nguyệt tuế quay vần Duyên kiếp chưa hề lỡ rồi
(Xem: 7266)
Phong trần say mấy độ Bạc phếch áo vai đời Thu về xanh tiếng nhạn Xuân về hoa cỏ tươi.
(Xem: 5695)
Vui đâu cho bằng vui chùa Có Thầy có Bạn có mùi trầm hương Có tiếng khánh có đạo trường Có lòng hiểu biết tình thương vô bờ .
(Xem: 4883)
Nghiệp ta ta xin trả Không than vãn cùng ai Ta mang ta tự gánh Nhân quả chẳng thể sai .
(Xem: 5281)
“Suối trong dòng tuyệt vô ngần, Sạch bao nhiêu nghiệp bụi trần chướng duyên… Lên đây tục gọi chùa trong, Động bao la động, dứt dòng tử sinh”
(Xem: 5621)
Nhiệm mầu Phật Pháp cao sâu Hành chuyên lợi lạc chẳng cầu cúng xin Hơi ta ta biết một mình Chân ta ta bước hành trình mãi thôi .
(Xem: 4636)
Ngát toả hương thơm kính cúng dường Lòng thành dâng lễ Phật mười phương Nương nhau vui sống trong tình đạo Sách tấn cùng tu giữa thế thường .
(Xem: 5406)
Sở tri chướng con đường đầy chướng ngại Trên đường tu chẳng lối thoát mở ra Tranh luận hoài không lợi ích tâm ta Ngồi tĩnh lặng đẹp như vầng trăng sáng .
(Xem: 5961)
Viên ngọc quý nằm trong túi áo Bao kiếp rồi ta chẳng nhận ra Cuộc đời cứ mãi trôi qua Khó khăn khốn khổ lê la khắp đường .
(Xem: 5492)
Mùa xuân nào thật sự, nầy Em ? Khi cuộc sống còn nhiều phía trước Ta cặm cụi những điều mơ ước Để làm cho hiện thực trái tim.
(Xem: 9419)
Em có hay ! Những chiếc lá thức tàn canh Cây chuyển mạch, Dòng đời thay sắc áo Hoa đương nụ dưới ngàn sương huyền ảo Cánh chim về chở trĩu ước mơ xanh.
(Xem: 7117)
Mênh mang sóng nước nắng vờn qua, Cát trắng cò bay nương cánh sa. Lớp lớp thuyền về trăng rọi lá, Tầng tầng mây phủ gió lòn hoa.
(Xem: 6377)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân.
(Xem: 5074)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà,
(Xem: 5871)
Cuối đời phủi áo ra đi Nhẹ nhàng thanh thoát chẳng gì cưu mang Bụi trần không bám vương mang Phút giây từ bỏ chẳng màng sầu thương .
(Xem: 6446)
Gió thoảng mây vờn chỉ thoáng qua, Bên triền dốc phẳng dỗi phong sa. Mưa về thấm đẫm xuôi bờ lá, Nắng đến vươn dài rộng thảm hoa.
(Xem: 5625)
Niềm vui lớn là niềm vui Chánh Pháp Mong tu hành thoát khổ kiếp giây oan Bờ bên kia mở lối cổng Niết Bàn Bao đau khổ biến tan trong khoảng khắc .
(Xem: 5049)
Thong dong cùng khắp chốn Mỗi bước đường ta đi Nhìn mây trời cao rộng Lòng trải nghiệm từng ly .
(Xem: 11134)
Từ vô lượng biển sông Đến sa mạc mênh mông Đâu đâu cũng là cát Có có mà không không!
(Xem: 6225)
Cỏ cây, sinh vật thời xưa Đều cùng biết nói, lại vừa biết nghe
(Xem: 5745)
Trời se lạnh mùa Đông gần sắp đến Lá Thu vàng rơi rụng khắp vườn sân Vị Thiền Tăng lẵng lặng thắp hương trầm Dâng kính Phật lắng ngồi trong im lặng .
(Xem: 6124)
Lễ khánh thành đồng hương nghe hoan hỷ Chùa Huyền Quang qua tin tức truyền thông Khắp muôn nơi đều hướng đến chung lòng Mừng Chùa mới đứng uy nghiêm hùng vỹ
(Xem: 5932)
Chư tôn tứ vị đã xa rồi, Nhớ đến thâm ân lệ lại rơi. Đuốc tuệ còn mờ, ngâm tánh lặng, Đèn thiền chưa sáng, lạnh thân côi.
(Xem: 6004)
Cát bụi thời gian phủ bóng mờ Đến nay cuộc sống mãi chơ vơ Tối ngày mong đợi tiền , danh , sắc Hôm sớm ước tìm chức phận mơ.
(Xem: 5538)
Tâm đã thấm vào trong lòng Phật Pháp Toả hương thiền giữa cuộc sống hôm nay Từ nội tâm vững chải muốn mở bày Mong lợi lạc cuộc đời thêm hương sắc .
(Xem: 5654)
Bụi bám thường lau sáng hiện ra, Nguồn chơn diệu dụng, nghĩa đâu già. Suối reo róc rách, cá vui lượn, Trăng chiếu lung linh, vật trải xa.
(Xem: 5998)
Lạc đạo an bần sống thảnh thơi Đậu hũ rau cơm hạt của trời Ngoài kia còn biết bao người đói Giản dị nhu cầu dễ sống thôi .
(Xem: 5570)
Đạo vốn không tham chấp Mà ngày thường ngát hương Hương từ bi trí tuệ Toả lan khắp nẻo đường
(Xem: 6859)
Chân Như tỏa rạng chiếu nhân thiên, Tỏa ánh quang minh, khắp mọi miền. Phật Tử hồi tâm hành thiện hạnh, Tăng Ni chuyển niệm phát chân nguyền.
(Xem: 9021)
Tôi học dứt âu lo Sống cuộc đời nguyện cho An vui là cửa ngỏ Đẹp bước đường thơm tho
(Xem: 6080)
Quê hương bao giờ cũng đẹp Tình người gắn bó bên nhau Dù bao khó khăn nguy khốn Sẻ chia từng bửa cơm rau .
(Xem: 5238)
Thưở xưa có vị tu hành Thật là đức hạnh nổi danh vô cùng Thầy tên là sư Chánh Thông Lâu nay muốn kiếm trong vùng rừng thưa
(Xem: 5751)
Cảm nghiệm trong ý thiền Bình yên trong ánh đạo Sống đời không kiêu ngạo Là đức tánh trượng phu .
(Xem: 6650)
Không từ nơi nguồn cuộc sống Muôn trùng khổ đế thậm thâm Cành lau nghiêng chiều thực-mộng Cành lau trắng trời diệu tâm.
(Xem: 7674)
By Bhikkhuni Hue Tran (Poems composed in days of retreat at Tao-Khe Tinh That) Translated into English by Nguyen Giac
(Xem: 5163)
Cuộc đời rồi cũng qua Mây trời vẫn xanh ngát Dù lòng người có khác Pháp Phật vẫn đậm đà
(Xem: 4537)
Sơn Tăng lên núi tọa thiền; Không danh lợi, chẳng muộn phiền đó đây; Bạn cùng trăng nước trời mây; Ma Ha Bát Nhã, Thân này vốn không.
(Xem: 7989)
Sắc sắc, không không tánh rỗng trong, Rảnh rang lặng lẽ chẳng vương lòng. Thời thời quán chiếu, nương tâm học, Kiếp kiếp huân tu, bặt thức rong.
(Xem: 6504)
Hằng năm vào tiết mùa đông Tục rằng: phải nhớ ơn công đất trời Ai hay cái lạnh nghiệt đời Thuở ngày xưa ấy, bao người ấm no.!?
(Xem: 5341)
Xin một lần tạ ơn cùng khắp cả Ơn đất trời ơn cha mẹ sanh ta Ơn đức Thầy giáo huấn thật thiết tha Ơn đại chúng cùng ơn sâu Tam Bảo .
(Xem: 4870)
Sống mà chỉ biết cái tôi Tới giờ nhắm mắt luân hồi chuyển đưa Một câu niệm Phật vẫn chưa Giàu sang như gió mây mưa giữa trời .
(Xem: 4667)
Tâm nhơ khéo giữ, sống an nhiên, Thấy rõ sân si, tạo phước điền. Đoạn ngắn đan tay xa ác nạn,, Đường dài rảo bước tránh oan khiên.
(Xem: 6233)
Sắc tướng thế gian vốn tính không, Tâm nhơ vụng gội khổ luôn chồng. Ba đường luẩn quẩn thiện duyên lắng, Sáu nẻo loanh quanh ác nghiệp rong.
(Xem: 5572)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
(Xem: 6917)
Một hôm thuyết pháp trở về Phật cùng đệ tử đang đi trên đường Chợt đâu thấy một anh chàng Lùa bầy bò chạy nghênh ngang reo hò.
(Xem: 6589)
Miền Trung đất nước tôi yêu Mỗi năm bão lụt gây nhiều tang thương Ruộng vườn nhà cửa phố phường Biết bao thảm hoạ triều cường cuốn trôi .
(Xem: 6928)
Đến đi là chuyện cuộc đời Tử sanh là chuyện muôn đời xảy ra Duyên sanh trong cõi người ta Hổ tương từng phút chan hoà nắng mai .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant