Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

28 Tháng Giêng 202023:19(Xem: 5011)
“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Đọc “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Nguyên Giác

bia sach Tho Thien Le Nguyen Zen Poems

Trong khi chờ năm mới, một trong những niềm vui lớn là có vài ngày thư thả để lòng lắng xuống, mở trang sách xưa để đọc lại thơ Thiền… Năm nay, niềm vui của tôi là đọc tác phẩm “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” – một tuyển tập song ngữ Anh-Việt, một công trình văn học mất hơn 10 năm để thực hiện.

Bản sách giấy trong lần xuất bản 2019 của NXB Hội Nhà Văn chỉ in 500 ấn bản, dày 160 trang, trên khổ giấy quý 25 X 25 cm. 

 

Bìa sách “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems.”

 

Chủ biên là Nguyễn Bá Chung; dịch thơ tiếng Việt là Nguyễn Duy – Nguyễn Bá Chung; dịch thơ Anh ngữ là Sam Hamill – Nguyễn Bá Chung; Hòa Thượng Thích Phước An viết Lời giới thiệu (trang 11-13); Nguyễn Duy Sơn thực hiện phần hình ảnh; Nguyễn Duy thiết kế tổng thể; Võ Anh Thơ thiết kế mỹ thuật.

Có thể hình dung mức độ thực hiện rất mực công phu, khi chúng ta đọc thấy trong Lời Cảm Tạ. Trong đó  nơi trang 9-10 ghi rằng:

“… Trước tiên, chúng tôi xin cảm tạ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã cung cấp cho chúng tôi bản chữ Hán của 12 bài thơ mà chúng tôi không tra cứu được. Thầy Tuệ Sỹ đã hoan hỷ đọc qua một bản thảo trước đây của Tuyển Tập này, chỉ dạy cho chúng tôi biết các thuật ngữ Phật giáo đã được chuyển dịch sang Hán văn như thế nào, và đã sửa cho chúng tôi một số lầm lỗi. Những lời phê bình của Thầy về bản dịch thơ tiếng Việt hết sức xác đáng và đã được điều chỉnh. Ở giai đoạn cuối, Tiến sĩ Trần Thị Hải Yến, Trưởng phòng Văn học Việt Nam Cổ Trung Đại, Viện Văn học, đã đọc lại toàn bộ Tuyển Tập, chỉ ra một số sai sót, giúp Tuyển tập hoàn thiện hơn. Gần đây nhất Tiến sĩ Nguyễn Nam, giảng viên sáng lập Trường Đại Học Fullbright Việt Nam, đã duyệt lại toàn bộ Tuyển tập và cung cấp phông chữ Hán cho soạn giả. Chúng tôi thành thật tri ân tất cả các học giả nêu trên.”

Nghĩa là, Tuyển tập được thực hiện rất mực công phu. Và do vậy, có thể xem như toàn bích về các ý nghĩa nhà Thiền khi dịch thơ.

Nhà văn Cao Huy Thuần trong bài viết nhan đề "Thơ Thiền" trên tạp chí Diễn Đàn nơi đầu bài ca ngợi Tuyển tập: 

“Nguyễn Duy qua chơi Pháp, mang theo quyển sách "Thơ Thiền Lê-Nguyễn" anh vừa xuất bản cùng với Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill. Sách in mỹ thuật, giấy láng, bìa cứng, ảnh đẹp, sang trọng, cầm trên tay chỉ muốn nâng niu. Lời giới thiệu ở đầu sách, dưới ngòi bút của thầy Thích Phước An, xứng tầm với sách, đầy đủ trong nội dung, đạo vị trong lời lẽ, tưởng khó nói gì thêm.” (1)

Thật đúng như thế, khó nói gì thêm.

Nói về ý nghĩa nhà Thiền, đã được hai vị Thầy lớn -- Thầy Tuệ Sỹ và Hòa Thượng Thích Phước An – đọc, góp ý, hiển nhiên là toàn hảo, không thể sơ suất.

Nói về chữ nghĩa, Nguyễn Duy là một trong vài nhà thơ xuất sắc hàng đầu của dân tộc, khi dịch lại thơ Thiền trong thể lục bát, hiển nhiên là tuyệt bút khó tìm.

Nói về bản dịch sang tiếng Anh, cả hai học giả Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill đều là hai cổ thụ trong học giới Hoa Kỳ. 

Do vậy, tác phẩm song ngữ Anh-Việt “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” là một viên ngọc sáng trong các ẩn phẩm –có giá trị trên nhiều lĩnh vực như thi ca, Thiền lý, văn dịch đối chiếu… Rất mực hy hữu.

Nơi đây, chỉ xin đưa ra vài điểm nhận thấy trong khi đọc. Bản thân tôi vốn học Anh văn không được chính quy, cho nên ý kiến nơi đây chỉ là nghi vấn, không dám nói là nhận định.

Chữ “vị sư” (trong đoạn gần giữa trang 11) trong bài của Thầy Phước An được dịch là “bonze” (gần giữa trang 14). Đây là một chữ rất hiếm khi gặp. Trong hai trang nhà lớn nhất về Phật giáo (SuttaCentral và Access to Insight) khi dùng chức năng search, chúng ta không thấy chữ “bonze” nào. Chữ cổ nhất là "bhikkhu" (phiên âm: tỳ khưu, hay tỳ kheo), chữ thường nhất là “monk” (sư) hay “nun” (ni sư) – và khi viết tránh phân biệt tính phái là dùng chữ “monastic.” 

Trong khi đó, theo tôi nhớ, trong suốt thời đi học của một người bình thường tại Việt Nam, có lẽ cũng không gặp chữ “bonze” tới một lần. Chữ “bonze” chỉ gặp trong học giới Hoa Kỳ, phần lớn có liên hệ tới các văn thư công quyền Hoa Kỳ, dễ gặp nhất là các văn thư về Việt Nam trong năm 1963. 

Như thế, xin nêu nghi vấn, có phải các dịch giả (Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill) muốn tạo ra một văn phong cổ và đặc biệt nhắm tới một đối tượng độc giả là các học giả Hoa Kỳ quen thuộc với lịch sử VN thời kỳ 1950s-1970s? 

Có một suy nghĩ về trích dẫn. Nơi trang 12, bản Việt ngữ, và trang 14, bản Anh dịch, Thầy Phước An có dẫn hai đoạn từ hai kinh, một từ Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh) và một từ Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh) nhưng không ghi ký số, cho nên độc giả có muốn tìm bản gốc trong hai tạng kinh kia cũng khó dò nổi, vì Tương Ưng Bộ có hơn ba ngàn bản kinh, và Trung Bộ có tới 152 bản kinh.

Nhưng cách viết như thế sẽ tránh sự rườm rà, không làm độc giả suy nghĩ về ký số, và sẽ tập trung vào thơ dịch hơn. Nghĩa là, viết theo kiểu “Đức Phật nói rằng…” nhưng không dẫn ra bản kinh gốc. 

Mặt khác, cũng có thể nhận thấy tính đa dạng trong văn phong dịch. Bài thơ “Du Nam Hoa Tự” của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), có hai câu cuối nơi trang 18 là:

Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy,

Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.

Trong phần dịch (trang 20) dịch nghĩa hai câu cuối là:

Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa,

Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian.

Dịch thơ hai câu này, Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung viết:

Tào Khê tuôn chảy một giòng

Tẩy cho muôn kiếp sạch bong bụi trần.

Độc giả có thể khởi lên ý nghĩ: có gì khác giữa chữ “dòng” và chữ “giòng” trong cùng trang 20? Tại sao trong cùng trang, lại dùng hai chữ khác nhau (tuy rằng, cả hai chữ đều đúng và đều phổ biến)?

Ngó sang trang 21, thắc mắc cũng hiện ra. Vì bản tiếng Anh, nơi phần dịch nghĩa hai câu này viết:

stream of Tao Khe passes by the gate

Clean all the dusts that have clung in so many life-times to people.

Hai câu trong phần này Hamill dịch sang thơ là:

Tao Khe River flows beside the gate,

Clean the dust that has clung to so many people’s lives.

Hiển nhiên là dịch giả cố ý dùng hai chữ khác nhau trên cùng trang, vì có thể hiểu rằng chữ stream là dòng nước nhỏ, và river là dòng nước lớn… và dịch giả muốn giữ văn phong riêng. Nói như thế, để biết rằng dịch giả đã cân nhắc nhiều chữ, để dùng trong nhiều ngữ cảnh, chứ không phải tự tiện. Xin nhắc lại, tiếng Anh của bản thân tôi học không chính quy, cho nên không dám khẳng định về ngữ nghĩa. Chỉ suy đoán theo trực giác thôi.

Một bài thơ nổi tiếng của ngài Minh Châu Hương Hải (1628 – 1715) nơi trang 30 có hai câu đầu là:

Phan văn tự kỷ mỗi thường quan

Thẩm sát tư duy tử tế khan.

Trong phần Việt dịch trang 32, dịch nghĩa là:

Mỗi giây phút trở về xem xét tâm mình

Khảo sát và tư duy thật kỹ càng.

Và do Nguyễn Bá Chung dịch thơ là:

Từng giây phút tự xét mình

Suy đi ngẫm lại tâm hình rõ ra.

Hai câu thơ theo âm chữ Hán-Việt nêu trên gần như ai trong nhà Thiền ở Việt Nam cũng thuộc nằm lòng. Nhưng chữ “tâm hình” của Nguyễn Bá Chung là chữ rất mới, thấy rõ là để giữ âm vận “inh” với chữ “mình” cuối câu lục ở trên. Sáng tạo chữ như thế là tuyệt vời, vì khi chúng ta đọc, tự nhiên cũng thấy nghĩa minh bạch. Mới biết, dịch là công trình gian nan, đầy sáng tạo.

Tuy nhiên, trong phần tiếng Anh của Sam Hamill, khi dịch câu đầu trong hai câu trên nơi trang 33, lại dư chữ, thành ra dư nghĩa.

Literal translation (Dịch nghĩa): 

Every moment be ready to watch one’s mind…

Và Poem (thơ):

Every moment, be prepared to watch one’s mind…

Về văn phạm và âm điệu thì hiển nhiên tuyệt vời, nhưng về Thiền lý thì lẽ ra nên rút ngắn hơn, bỏ nhóm chữ “be ready to” (sẵn sàng để) và bỏ nhóm chữ “be prepared to” (sắp sẵn để) thì sẽ trực tiếp hơn, lộ ý người thầy (Minh Châu Hương Hải) đang dạy học trò (độc giả).

Đối với người học Thiền, phần lớn thơ trong Tuyển tập đều quen thuộc. Nhưng trong Tuyển tập đã có thêm một số vị ít được quen tên, trong đó tôi ưa thích đặc biệt là bài thơ “Độc Phật Kinh Hữu Cảm” cùa Nguyễn Danh Nho (1638-1699). Ngay lần đầu mở ra đọc, bản âm Hán-Việt ở trang 34, bản Việt dịch trang 36 và bản Anh dịch trang 37, tôi say mê tức khắc, và thắc mắc tại sao tới bây giờ mình mới gặp bài thơ này.

Thơ của Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung cũng tuyệt vời, khi dịch bài của Nguyễn Danh Nho với 4 câu cuối thất ngôn bát cú chuyển sang lục bát:

Nghiệp anh hùng, lá thu rơi

Giàu sang, hoa rụng giữa trời mưa xuân.

Không tức sắc, sắc tức không,

Có đâu sừng thỏ rùa lông bao giờ!

Dòng cuối đảo chữ “sừng thỏ rùa lông” (lẽ ra: sừng thỏ lông rùa) cũng là ứng biến để giữ vần “ông” vậy mà không làm vướng dòng suy nghĩ của độc giả, phải nói rằng tuyệt bút, nghe bất ngờ nhưng rất mực tự nhiên.

Trong Tuyển tập cũng có một bài thơ ít được các học giả về Thiền chú ý tới: bài thơ “Tiêu Tự Thần Chung” (Chuông Sớm Chùa Tiêu) của Mạc Thiên Tích (1708-1780), một võ tướng có công mở mang đất Hà Tiên và được Chúa Nguyễn phong chức Tổng Binh Đại Đô Đốc. Là con Mạc Cửu (người dẫn một nhóm người Trung Quốc tới Hà Tiên lập nghiệp vì chống triều đình nhà Thanh), Mạc Thiên Tích nhiều lần dẫn quân đánh bại quân thổ phỉ Trung Quốc, quân Khmer, quân thổ phỉ Mã Lai… Khi quân Tây Sơn tấn công Gia Định năm 1776, Mạc Thiên Tích chạy qua Xiêm (Thái Lan); khi vua Xiêm nghi ông làm gián điệp cho Gia Định và giết các con lớn của ông và 50 người tùy tùng, Mạc Thiên Tích tự sát. Mạc Thiên Tích yêu thơ văn, đã tổ chức Tao đàn Chiêu Anh các. 

“Chuông Sớm Chùa Tiêu” là một bài thơ rất mực tuyệt vời. Trong Tuyển tập, bản âm Hán-Việt ở trang 58, bản dịch Việt ở trang 60, bản Anh dịch trang 61.

Bài thất ngôn bát cú, do Nguyễn Duy chuyển sang thơ lục bát, với 4 câu cuối như sau:

 

Giật mình nghe tiếng hạc qua

Quạ kêu nương bóng trăng tà cuối đêm

Mọi nhà còn tựa gối êm

Tiếng gà báo sáng rộ lên bốn bề.

Nỗi cô đơn cùng cực đã hiển lộ trong thơ, trong cái giật mình của nhà thơ, trong tiếng kêu lưng trời của chim hạc, và rồi nỗi cô đơn tột cùng hiện ra nơi ánh trăng nghiêng tà tà cuối đêm và rồi tiếng gà. Thơ Thiền hình như luôn luôn đi song hành với những nỗi cô đơn lạnh người như thế.

Trong Tuyển tập cũng có một tác giả ít được các sách về Thiền nhắc tới là Vũ Tông Phan (1800-1851), một nhà giáo dục và là bậc thi hào của thế kỷ 19.

Bài thơ họ Vũ nhan đề “Trấn Quốc Quy Tăng” bản âm Hán-Việt trang 110, bản Việt dịch “Sư Về Chùa Trấn Quốc” trang 112, bản Anh dịch “A Monk Returns To Tran Quoc Pagoda” trang 113. Đọc bài thơ này, chúng ta nhận ra nỗi cô đơn tột cùng của nhà sư trong thơ khi bước trở về ngôi chùa Trấn Quốc. Bài thất ngôn bát cú này có câu thứ năm và sáu, hiê3n lộ cái cô đơn tột cùng trong vũ trụ:

Lưu liên nguyệt trúc khan cô ảnh

Giải cấu vân âu nhận cổ bằng.

Dịch nghĩa nơi trang 112: 

Lưu luyến xem bóng cây trúc cô đơn lẫn dưới trăng

Tình cờ gặp gỡ chim âu với mây trời mà nhận ra [bạn cũ].

Chuyển sang dòng thơ lục bát tuyệt vời của Nguyễn Duy là:

Lặng xem trúc lẻ trăng ngà

Tình cờ chim bạn nhận ra mây lành…

Thơ Thiền nào cũng hiển lộ nét cô đơn trong vũ trụ tương tự như thế. Bởi vì trong Khổ Đế, xuyên suốt sinh, già, bệnh và chết luôn luôn là một chúng sinh và chỉ một đang chuyển biến, đang chảy xiết. Không ai ra đời giùm để chịu khổ giùm, không ai bệnh giùm và chịu chết giùm. Và trong tận cùng vẫn là nỗi cô đơn của người bước vào đường đạo, nơi đó nhà sư (hay nhà thơ) chỉ như cây trúc đơn độc đứng làm bạn với ánh trăng khuya, và chỉ như cánh chim âu đơn độc làm bạn với vầng mây cao.

Trong “Lời Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Thiền Lê-Nguyễn” do Hòa Thượng Thích Phước An viết, nơi trang 11-16, đã ghi nhận về Tuyển tập:

“Trong ba mươi tác giả của ba mươi bài thơ trong tuyển tập này, ta có thể thấy đủ mọi thành phần trong xã hội vào thời Lê Nguyễn.

Ngoài các Thiền sư ra , thì còn có vua chúa, giới quý tộc, những bậc anh hùng đánh đuổi giặc phương bắc xâm lược như Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà Nho vui thú điền viên Nguyễn Khuyến đến cả kẻ nổi loan chống lại triều đình như Cao Bá Quát .v.v….nghĩa là tất cả đều lấy cảm hứng từ Phật Giáo hay những ngôi chùa của Phật Giáo.

Nhưng tại sao Phật Giáo lại được giới trí thức, Nho sĩ đón nhận một cách nồng nhiệt như vậy?”

Xin lập lại câu hỏi vừa dẫn: Tại sao giới trí thức đón nhận Phật Giáo một cách nồng nhiệt như vậy? Chúng ta cũng có thể hỏi thêm tương tự, rằng tại sao hoa lá cây rừng lại hướng về ánh mặt trời một cách nồng nhiệt? Câu trả lời đơn giản, vì Phật Giáo là ánh sáng, là giải thoát, là hạnh phúc tuyệt trần.

Tuyển tập song ngữ “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” đã góp một phần rất tuyệt vời khi đưa ra ánh sáng một phương diện khác của ảnh hưởng Thiền tại Việt Nam: ba mươi bài thơ Thiền thời Lê-Nguyễn được phiên âm Hán-Việt, được dịch nghĩa, được chuyển thành thơ lục bát, và được dịch sang tiếng Anh cả phần nghĩa và thơ.

Tuyển tập này là một công trình hy hữu, cần hơn 10 năm để hoàn tất. Phật tử và các nhà nghiên cứu đang rất cần những công trình như thế.

Xin gửi lời chúc mừng Tuyển tập và trân trọng cảm ơn những người đã góp sức thực hiện Tuyển tập, cụ thể là Chủ biên Nguyễn Bá Chung, nhà thơ Nguyễn Duy và học giả quá cố Sam Hamill.

Vì chỉ in có 500 ấn bản, cho nên có thể sẽ khó tìm mua. Độc giả quan tâm, có thể email về NXB Hội Nhà Văn: nxbhoinhavan65@gmail.com

.

GHI CHÚ:

(1) Cao Huy Thuần. Thơ Thiền. Diễn Đànhttps://www.diendan.org/sang-tac/tho-thien

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5051)
Nơi miền bắc Ấn Độ xưa Gần Ba La Nại có khu rừng già Nai con vừa mới sinh ra Dáng hình đẹp đẽ, thật là hiếm hoi
(Xem: 7028)
Phật tánh dung thông nghĩa chẳng biên, Ba ngàn thế giới cũng không miền. Tùy duyên bày phép lần chân tướng, Độ pháp lập khuôn ứng bản nguyên.
(Xem: 5834)
Chân tâm rỗng lặng thật vô biên, Vốn tự xưa nay tỏa khắp miền... Gặp cảnh, tuỳ cơ bày diệu ngữ, Giao duyên, ứng lúc hiện chơn nguyên.
(Xem: 8284)
Thuở xưa Đức Phật chúng ta Hồi còn tại thế, tiếp bà mẹ kia, Bà ta nức nở não nề Thương con vừa chết, thảm thê cõi lòng,
(Xem: 5165)
Thời xưa ở tại vùng kia Có hai người nọ chuyên nghề tiểu thương Bán buôn lặt vặt tầm thường Đồ dùng bếp núc, nữ trang rẻ tiền.
(Xem: 5409)
Tổ Tổ xưa nay khéo lập tông, Vững niềm tin Phật, Phật nơi lòng. Thân này huyển hoá, hư đâu thật, Vật nọ vô thường, có chợt không.
(Xem: 7991)
Xuống chốn trần gian được mấy khi Rong chơi chốc lát lại ra đi. Nổi trôi sanh tử còn chưa dứt, Đắm đuối tướng danh khó viễn ly.
(Xem: 5634)
Vườn thiền cảnh vắng cỏ hoa thơm, Nắng gọi hồn thơ xua nỗi hờn. Trúc biếc lung lay ngân địu thở, Mây hồng lãng đãng quyện niềm ơn.
(Xem: 5442)
Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình.
(Xem: 6175)
Tâm nhiên tỏa chiếu bốn phương trời, Ánh hiện từ bi rạng khắp nơi... Đối cảnh tuỳ duyên không chướng ngại, Tham thiền nhập định chẳng ngăn đôi.
(Xem: 7882)
Ngàn năm bên lối nhỏ Trút niềm đau muộn phiền Ngàn năm mang hơi thở Dìu vợi trời tam thiên.
(Xem: 4872)
Sài Gòn chợt nắng gió hiu hiu Tôi đến thăm Ôn một buổi chiều Phố phường khói bụi người qua lại Xe cộ bên đường rộn tiếng kêu.
(Xem: 4997)
Ở đời quý nhất hòa bình, Sống đâu chẳng sợ một mình chơi vơi, Thân hòa với cả mọi người, Trong êm ngoài ấm suốt đời lạc quan
(Xem: 4815)
Chơn như lẳng lặng ở trong ta, Quét dọn lâu ngày sẽ hiện ra. Tập tánh dứt mê, lìa địa ngục, Khai tâm liễu ngộ, rõ Ta Bà.
(Xem: 6306)
Sự đời được mất rõ vô thường, Cội gốc sân si vốn khó lường. Chuyện đến tùy duyên không vướng mắc, Việc qua cởi bỏ chẳng còn vương.
(Xem: 4862)
Từ thuở vào chùa học kệ kinh, Lăng Nghiêm, Bát Nhã sáng lung linh. Đèn thiền rạng chiếu theo trang chữ, Đuốt tuệ ngời soi hiện bóng hình.
(Xem: 5565)
Vị cao tăng đắc đạo rồi Tính ra thấm thoắt nửa đời xuất gia Tu nơi thiền viện phương xa Dứt tình quyến luyến quê nhà từ lâu,
(Xem: 6711)
Ngày xưa có một bầy nai Nai đầu đàn quả là tài giỏi thay Một ngàn nai họp thành bầy Nhởn nhơ chung sống, vui vầy, rong chơi,
(Xem: 4940)
Lời kinh ý Phật gởi trao Ta nay xin nguyện khắc vào trong tâm Muôn ngàn hướng đẹp sâu thâm Đêm ngày gìn giữ nhiếp tâm hành trì .
(Xem: 5423)
Giường nan xốc xếch dưới trăng vàng, Trở giấc chim mơ, rộn đại ngàn. Loáng thoáng lá đưa đùa gió lạc, Rì rào suối lượn nuối đêm tan.
(Xem: 5578)
Tội từ tâm khởi tạo ra Chẳng ai cứu chuộc đời ta bao giờ Đừng mong cứ mãi cậy nhờ Sống đời ỷ lại luôn chờ cúng xin .
(Xem: 5619)
Nước kia có một quốc vương Nhân từ, vui vẻ, dễ thương vô cùng Xuân về hoa lá tưng bừng Vua mang quà tặng đến từng xóm thôn Thăm người nghèo khó neo đơn, Hòa mình cùng với vui buồn của dân.
(Xem: 6487)
Cái hẻm nhỏ tẹo tèo teo Mà bao kiếp sống vẫn đeo tháng ngày Trẻ em bụi bặm loay hoay Mua tần bán tảo đâu hay kiếp nghèo
(Xem: 8024)
Từ thiện cơm chay giữa phố đông, Sẻ chia khó nhọc giới lao công. Cực khổ nắng mưa cùng năm tháng, Vất vả mưu sinh khắp cõi trần.
(Xem: 5048)
Cách trở bao năm nay trở về, Rộn ràng ký ức chuổi dài thê, Xa nghe vạn kiếp chìm lưu lạc, Đánh thức hồn ta giữa ngộ mê.
(Xem: 6597)
Đời tu cao đẹp quá thôi Ba y một bát đứng ngồi thong dong Giản đơn chiếc áo nâu sòng Cơm canh đạm bạc gánh bồng nhẹ vai.
(Xem: 4974)
Mỹ Quốc thiên tai bão cuốn qua Harvey(TX)mới dứt đến Irma(FL) Hai cơn bão dữ tràn ngập tới Khốn khổ dân lành chạy thoát ra .
(Xem: 5825)
Chẳng lo chi bao cuộc đời triền phược Sống an vui tu tập dứt lo xa Mở rộng lòng đối xử với người ta Con đường đạo không còn chi trở ngại .
(Xem: 5378)
Biết nhận rõ cuộc đời không là thật Đến và đi như giấc mộng phù vân Sao ta không sống đẹp giữa thế trần Lấy tình thương làm con đường đạo nghiệp .
(Xem: 4316)
Một trong tôn giáo cổ xưa, Có thầy tu nọ rất ưa tế thần, Tuy ông nổi tiếng xa gần, Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay.
(Xem: 3697)
Xưa kia ở chốn núi rừng, Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm, Họp bầy nô rỡn quanh năm
(Xem: 4654)
Thuở xưa có một thanh niên, Rất là hiếu thảo khắp miền biết danh, Là con một, đã trưởng thành, Nhưng chưa chịu lập gia đình với ai
(Xem: 5708)
Thao thức mãi với yêu thương ngày cũ, Vẫn sống hoài trong tâm tưởng mẹ ơi !
(Xem: 12811)
Cái vô cái hữu vốn là không, Hiểu được duyên sanh chớ nặng lòng. Đông đến tuyết rơi, sương giá lạnh, Hè qua phượng trổ, cảnh trời trong.
(Xem: 3951)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân, Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang, Ông cha tu rất đàng hoàng, Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên...
(Xem: 3241)
Sắc thu phơi trên lá, Khói quyện vương hương trầm, Chùa đông như ngày hội, Chân bước mãi trầm ngâm.
(Xem: 3522)
Mưa đêm trở tiết, lạnh quanh phòng, Lặng tiếng chuông đưa quặn thắt lòng.
(Xem: 3669)
Mẹ để con vào dạ, Nâng niu mười tháng trường, Đi, đứng, làm mọi việc... Vun đắp tình yêu thương!
(Xem: 3725)
Con về, ngủ dưới gốc thông, Trong mơ hé nụ đóa hồng Vu Lan.
(Xem: 3788)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 3518)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 9538)
Mây trắng vẫn thênh thang lùa vào nỗi nhớ, Phương trời cũ, Biết đâu tìm hơi thở, Bóng mẹ mùa thu đổ xuống bóng hoàng hôn !
(Xem: 4368)
“Tâm hiếu là tâm Phật. Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với truyền thống người Việt ta, hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết, rất thiêng liêng và cao cả.
(Xem: 4464)
Người ngồi đó nhìn dòng đời biến chuyển, Qua bốn mùa thay đổi bởi thời gian, Đẹp tự nhiên như gió cuốn mây ngàn, Tâm thanh thoát giữa hành trình cô độc.
(Xem: 6040)
Duyên đến duyên đi cũng là duyên Cớ chi ta lại phải ưu phiền Tuỳ duyên ta sống cho đúng đạo Cứ để dòng đời chảy tự nhiên .
(Xem: 8428)
Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm, Mới gây công đức vô ngần Cũng như gặp Quán Thế Âm được rồi!"
(Xem: 5522)
Đúng lời đức Phật dạy rồi: "Tâm ta đi khắp mọi nơi trên đời Cũng không tìm thấy được người Đáng yêu, đáng quý hơn nơi thân mình!
(Xem: 3579)
30 tháng 7, một mình, Mẹ ra biển động, Tình Cha lênh đênh, Bè lau quằn quại bờ sinh tử, Oa oa trẻ khóc, Rạng bình minh
(Xem: 5887)
Dòng đời như trường đấu, Được mất với hơn thua, Có không cùng thất bại, Diễn mãi chuyện trò đùa!
(Xem: 5091)
Lững thững đến, Lững thững đi, Tử sinh vẫn đó, cần chi vội vàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant